ĐỪNG LÀ NHỮNG KITÔ HỮU THEO KIỂU “BONG BÓNG XÀ PHÒNG”

Rút ra từ bài đọc thứ nhất, sách Giảng Viên chương 1, 2-21, “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân!” Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trong bài suy niệm của ngài sáng thứ Năm ngày 25 tháng 9 năm 2014 về cám dỗ của các Kitô hữu muốn “làm cho mình được biết đến” khi làm những việc tốt.

Trong thánh lễ sáng tại nhà nguyện thánh Matta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói phải cẩn thận với sự phù vân hay sự hão huyền, nó lôi kéo chúng ta rời xa sự thật và làm cho chúng ta giống như “bong bóng xà phòng.”
Nếu anh em “không có cái gì đó là thật, là chắc chắn, anh em cũng sẽ qua đi như bao sự vật khác.”

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dựa vào Sách Giảng Viên để nhấn mạnh đến sự hào huyền. Ngài nói, sự hão huyền là một cám dỗ không chỉ đối với những người dân ngoại mà cũng là cám dỗ đối với cả các Kitô hữu, đối với “những người của niềm tin”.

Ngài đã lưu ý, Chúa Giêsu thường hay quở trách những người hay khoác lác. Ngài đã nói về những Luật Sĩ rằng họ không nên “đi ngoài đường” với “những trang phục lộng lẫy sa hoa”, như những “hoàng tử”. Chúa Giêsu khuyến cáo, khi anh em cầu nguyện đừng làm để được người khác biết, đừng cầu nguyện để rồi người khác sẽ nhìn thấy anh em cầu nguyện; “hãy cầu nguyện nơi kín đáo, hãy vào phòng và đóng cửa lại”.

Đức Giáo Hoàng nói, anh em cũng đừng làm như vậy khi anh em giúp người nghèo: “Đừng thổi kèn, hãy làm cách kín đáo. Cha anh em biết việc anh em làm, và thế là đủ”.

“Nhưng người hão huyền nói: ‘Hãy nhìn xem, tôi đang ký check này cho công việc của Giáo Hội’ và anh ta đưa tờ check ra; rồi anh ta đánh lừa Giáo Hội bằng chiêu thức khác. Nhưng đây là điều tạo nên con người hão huyền: anh ta sống vì những vẻ bề ngoài. Chúa Giêsu nói về điều này, ‘khi anh em ăn chay, đừng ra vẻ u sầu, buồn bã, để rồi mọi người sẽ biết anh em đang ăn chay. Không, hãy ăn chay với sự vui vẻ; hãy sám hối với niềm vui, để rồi không ai để ý đến'”.

Đức Giáo Hoàng khuyến cáo, sự hão huyền là “sống vì những vẻ bề ngoài, sống để được người khác biết đến”.

Ngài tiếp tục, những Kitô hữu sống như thế, sống vì những vẻ bề ngoài, vì sự hão huyền, giống như những con công, họ đi khệnh khạng, vênh váo giống như những con công”. Họ là những người thường hay nói: “Tôi là một Kitô hữu, tôi quen với cha đó, sơ kia, giám mục nọ; gia đình tôi là một gia đình Kitô giáo”. Họ khoác lác.

Nhưng, Đức Giáo Hoàng hỏi, “đời sống của anh em với Chúa là gì? Anh em cầu nguyện thế nào? Đời sống của anh em có thể hiện được lòng thương xót không? Anh em có thăm viếng những người bệnh không? Đó là một thực tại”. Ngài nói thêm, đây là lý do tại sao “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải xây nhà mình – nghĩa là, đời sống Kitô hữu của chúng ta – trên nền đá, trên sự thật”. Nói cách khác, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng “người hão huyền xây nhà của họ trên cát, và nhà đó sụp đổ, đời sống Kitô hữu sụp đổ, bởi vì nó không thể chống lại những cám dỗ”.

“Bao nhiêu Kitô hữu sống vì những vẻ bề ngoài?” Ngài nói. “Đời sống của họ giống như bong bóng xà phòng. Bong bóng xà phòng thì đẹp, với tất cả mầu sắc của nó! Nhưng nó kéo dài chỉ một giây, và rồi sau đó là gì? Ngay cả khi chúng ta nhìn vào một số đám tang, chúng ta cảm thấy nó là sự hão huyền, bởi vì sự thật là sự trở về với lòng đất trơ trụi, như Vị Tôi Tớ Chúa, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói. Lòng đất trơ trụi đang chờ chúng ta, đây là sự thật chung cuộc của chúng ta. Trong khi chờ đợi, tôi khoác lác hay tôi làm điều gì đó? Tôi có làm điều tốt không? Tôi có tìm kiếm Thiên Chúa không? Tôi có cầu nguyện không? Đó là những điều có thực, là những thực chất.Và sự hão huyền là một kẻ nói dối, là kẻ tùy hứng, nó lừa dối chính mình, nó lừa dối người hão huyền, từ ban đầu người đó giả vờ là cái gì đó, nhưng cuối cùng người đó thực sự tin chính mình là như vậy, người đó tin. Đó là thứ nghèo nàn!”

Và, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, đây là điều đã xảy ra với Tiểu Vương Hêrôđê người mà, như bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến, một cách lo lắng, đã hỏi về danh tánh của Chúa Giêsu.

Đức Giáo Hoàng nói, “Sự hão huyền gieo rắc sự lo âu độc ác, lấy mất đi sự bình an. Nó giống như những người trang điểm quá nhiều, và rồi sợ trời mưa ập đến sẽ làm trôi đi những gì họ trang điểm”.

Sự hão huyền không cho chúng ta bình an, Đức Giáo Hoàng lặp lại. “Chỉ sự thật mới cho chúng ta bình an”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói, Chúa Giêsu là đá tảng duy nhất, trên đó, chúng ta có thể xây dựng đời sống của chúng ta. “Và chúng ta thấy rằng lời đề nghị này của ma quỷ cũng đã cám dỗ Chúa Giêsu về sự hão huyền trong sa mạc”, ma quỷ nói với Chúa Giêsu: “Hãy đi với tôi, chúng ta hãy đi lên đền thờ, chúng ta hãy làm một màn trình diễn. Hãy tự gieo mình xuống và mọi người sẽ tin vào ông”. Ma quỷ đã giới thiệu cho Chúa Giêsu “sự hão huyền trên một cái đĩa phẳng”. Đức Giáo Hoàng nói, sự hão huyền “là một chứng bệnh tinh thần nghiêm trọng cách đặc biệt”.

“Các vị ẩn tu sa mạc Ai Cập đã nói rằng, sự hão huyền là một sự cám dỗ mà chúng ta phải chiến đấu cả đời để chống lại, bởi vì nó luôn trở lại để lấy đi khỏi chúng ta sự thật. Và để hiểu điều này, các ngài nói: nó giống như một củ hành. Anh em cầm lấy và bắt đầu bóc nó – củ hành – và hôm nay anh em bóc đi sự hão huyền, ngày mai một ít, và cả cuộc sống của mình, anh em đang bóc đi sự hão huyền để rồi vượt qua nó. Và cuối cùng anh em hài lòng: Tôi đã loại bỏ sự hão huyền, tôi đã bóc củ hành, nhưng cái mùi vẫn còn dính lại trên tay của anh em.

“Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn để chúng ta đừng là người hão huyền, hãy là con người thật, với sự thật của thực tại và của Tin Mừng”.

Chuyển ngữ: Hoàng Quốc Việt

ƠN CHÚA VÀ SỰ CỘNG TÁC CỦA CON NGƯỜI

Mỗi người, một cách nào đó, đều có những kinh nghiệm sống cho riêng mình. Những kinh nghiệm đó có thể là từ những biến cố vui buồn xảy đến trong cuộc đời. Riêng tôi, có nhiều biến cố xảy đến trong cuộc đời tôi, và tất cả những biến cố ấy đều cho tôi những kinh nghiệm sống, mà tôi luôn xác tín rằng đó chính là những ơn cần thiết Chúa ban để giúp tôi ngày càng nên tốt, nên giống Chúa hơn. Có một kinh nghiệm mà tôi luôn xác tín đó là ơn Chúa ban để tôi được biến đổi trong lối sống và ý hướng trong việc phục vụ. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó như một suy tư về ơn Chúa và sự cần thiết của sự cộng tác của con người với ơn Chúa ban.

Trong năm giúp xứ (2004 – 2005), vì được biết là người có khả năng tập hát, nên tôi được cha sở giao phụ trách ca đoàn, vì ngài muốn tôi củng cố lại ca đoàn. Điều này không có gì khó đối với tôi. Tôi đi vào công việc với lòng hăng say, vận dụng mọi cách, mọi khả năng để thực hiện công việc, theo như ước muốn của cha sở. Mọi việc diễn ra tốt đẹp, và sau một hai tháng, ca đoàn hát hay hẳn. Cha sở và mọi người khen…. Và cứ như thế tôi tiếp tục nhiệm vụ.

Thế nhưng, chuyện xảy ra là, một hôm trong khi đang tập hát, có một số ca viên nói chuyện gây ồn ào, không chú ý đến việc tập hát, tôi đã nổi nóng và la rầy những ca viên đó nặng lời. Ngay lúc đó, một anh trong số những ca viên đó phản ứng lại và nói cách gay gắt: “thầy là cái thá gì, thầy tưởng thầy ngon lắm hả? …”. Tôi rất giận nhưng đã kềm lại được. Nhưng dù sao thì bầu khí tập hát hôm đó đã trở nên rất nặng nề. Sau khi tập hát xong, trở về phòng, tôi cảm thấy rất buồn. Tôi đã cầu nguyện với Chúa, và trong cầu nguyện, tôi khám ra được lý do tại sao tôi lại dễ nổi nóng, không tiếc lời la rầy ca đoàn khi ca đoàn không chú ý tâp hát. Đó là vì tôi quá chú trọng đến công việc mà quên đi yếu tố con người trong khi phục vụ.

Thực vậy, trong phục vụ, việc quan trọng là tôi phải quan tâm đến yếu tố con người chứ không phải công việc. Công việc chỉ là để phục vụ con người. Vì quá chú trọng đến công việc và sự thành công của công việc, nên tôi đã trở nên gắt gỏng và sẵn sàng la rầy người khác khi họ làm cản trở cho công việc của tôi. Tôi tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho tôi được ơn biến đổi sau một sự việc được coi là không hay xảy đến với tôi. Tại sao đó lại là ơn Chúa?

Chắc chắn Chúa không tạo ra cho tôi biến cố đó, nhưng Ngài đã dùng chính biến cố đó để giúp tôi biến đổi về cách sống và cái nhìn về việc phục vụ. Bởi vì qua từng chi tiết của sự việc, tuy rằng đó là những bất ổn giữa tôi và ca đoàn, nhưng đó lại là cách Chúa dùng để biến đổi tôi. Ta thử nhìn sự việc theo từng bước diễn tiến của nó để thấy được rằng luôn có ơn Chúa như là nguyên nhân đệ nhất tác động đến sự kiện đó để Ngài ban ơn cho tôi :

– Tôi đi giúp xứ

– Cha sở nhờ tôi phụ trách ca đoàn

– Tôi vận dụng mọi khả năng để thi hành nhiệm vụ

– Tôi quá chú trọng và sự thành công trong công việc nên quên đi yếu tố phục vụ con người

– Ca đoàn nói chuyện không chú ý tập hát

– Tôi nổi nóng nên bị phản ứng lại

– Tôi kềm chế được

– Tôi buồn và muốn tìm ra giải đáp

– Tôi cầu nguyện với Chúa

– Chúa cho thấy được lý do tại sao để rồi tôi có được sự thay đổi cách nhìn về việc phục vụ.

Khi nhìn sự kiện trên qua từng giai đoạn diễn tiến của nó, tôi cảm nhận được ơn Chúa đã tác động để cho tôi có được một bài học về cách sống và phục vụ. Đó chính là ơn lớn lao mà chúa đã ban cho tôi, ơn biến đổi để được nên giống Chúa: phục vụ con người trong hiền lành và khiêm nhường. Ơn đó được ban là có sự cộng tác của nhiều người: Bề trên, cha sở, ca đoàn và chính bản thân tôi.

Đúng vậy, tôi đi giúp xứ là bởi vì trước hết tôi được Chúa gọi vào Chủng viện, được đào tạo rồi được gởi đi để thực tập mục vụ. Ơn gọi của tôi là ơn gọi nhưng không, khởi đi từ nơi Chúa qua Giáo hội và tôi cũng có phần cộng tác vào đó. Chúa ban ơn cho tôi để tôi sống ơn gọi qua những hướng dẫn của bề trên và tôi cũng nỗ lực cộng tác với ơn Chúa.

Tôi có khả năng tập hát và cha sở giao cho tôi phụ trách ca đoàn, qua đó Chúa muốn tôi phát huy khả năng Chúa ban cho tôi để tôi phục vụ. Nhưng khi phục vụ thì tôi lại bị sai lạc trong ý hướng: thay vì phục vụ cho con người thì tôi lại nhằm đến công việc, tìm sự thành công trong công việc. Nên khi có điều gì làm cản trở sự thành công đó thì tôi không chấp nhận. Vậy là việc tôi nổi nóng khi ca đoàn nói chuyện mà không chú ý tập hát là chuyện đương nhiên, và dẫn đến phản ứng của ca đoàn là chuyện phải có. Chúa muốn tôi điều chỉnh lại cách sống và ý hướng trong phục vụ nên đã để cho sự việc xảy ra.

Thực ra, Chúa đã có thể ngăn cản để ca đoàn không nói chuyện trong khi tập hát; Chúa đã có thể ngăn cản để tôi không nổi nóng khi ca đoàn không chú ý tập hát; Chúa đã có thể ngăn cản để ca đoàn không phản ứng lại khi bị tôi la rầy, nhưng Chúa đã không làm như vậy. Chúa đã muốn dùng tất cả những sự việc đó để biến đổi tôi trong ý hướng phục vụ cho đúng. Chính vì thế, Chúa đã tác động để tôi có thể kiềm chế được khi bị phản ứng lại, và nhất là Chúa đã thôi thúc để tôi biết tìm đến Chúa trong cầu nguyện, để trong sự tịnh tâm với Chúa, Chúa cho tôi nhận ra được bài học. Trong đó cũng có phần của tôi và của nhiều người khác.

Tóm lại, “tất cả đều là hồng ân”. Qua từng biến cố và trong từng giai đoạn diễn tiến của biến cố, có thể là do con người gây ra, và dù đó là những biến cố đau thương, thì Thiên Chúa vẫn luôn tác động để ban ơn cho con người. Mỗi biến cố sẽ luôn là một kinh nghiệm quý giá giúp biến đổi lòng người. Vì, “Thiên Chúa có thể rút sự lành ra từ sự dữ”. Vâng, tôi luôn xác tín rằng, ơn Chúa luôn hoạt động trong tôi qua từng biến cố vui buồn. Thế nhưng ơn Chúa chỉ có thể trở nên hiệu quả cho tôi khi tôi biết tích cực cộng tác với ơn Chúa. Bởi lẽ, ơn Chúa không phải là cái gì để dành mà là để tôi sống ngay trong chính giây phút hiện tại, qua từng biến cố đó để tôi được biến đổi. Ơn biến đổi chính là ơn được nên giống Chúa. Từ khi tôi đã ý thức và xác tín như thế nên tôi luôn cảm thấy bình an trước mọi biến cố vui buồn xảy đến với tôi, và tích cực cộng tác với ơn Chúa trong từng biến cố đó .

Hà Vi

GIÁO HỘI, TỰ BẢN CHẤT, LÀ CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN

Bài Giáo Lý Của Đức Giáo Hoàng Phanxicô Trong Buổi Tiếp Kiến Chung Tại Quảng Trường Thánh Phêrô, Thứ Tư Ngày 17 Tháng 9 Năm 2014.

Anh chị em thân mến,

Khi tuyên xưng đức tin, chúng ta xác quyết rằng Giáo Hội là “Công Giáo” và “Tông Truyền”. Thế nhưng trong thực tế, ý nghĩa của những từ ngữ và những đặc tính được nhiều người biết đến này của Giáo Hội là gì? Và chúng có giá trị gì đối với cộng đoàn Kitô hữu và đối với mỗi người chúng ta?

1. Công Giáo có nghĩa là phổ quát. Chúng ta có được một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ là nhờ một trong những Giáo Phụ, thánh Cyril thành Giêrusalem, khi ngài nói rằng: “Không một chút nghi ngờ, Giáo Hội được gợi là Công Giáo, nghĩa là, phổ quát, bởi vì thực tế là, Giáo Hội lan rộng khắp mọi nơi trên toàn cõi địa cầu; và bởi vì phổ quát và không sai lạc, Giáo Hội dạy tất cả sự thật, những điều mà con người phải biết, liên quan đến những sự dưới đất cũng như trên trời” (Bài Giáo Lý thứ 18, 23).

Một dấu chỉ rõ ràng của đặc tính Công Giáo của Giáo Hội là Giáo Hội nói bằng mọi ngôn ngữ. Và điều này không gì khác hơn là hiệu quả của ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2, 1-13). Thực vậy, chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã làm cho các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội có thể làm vang dội với hết mọi người, cho đến tận cùng trái đất, Tin Mừng của tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tự bản chất Giáo Hội là Công Giáo, “sự giao hưởng” bắt nguồn từ những căn nguyên của mình, và không thể không là Công Giáo, được trao cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng và gặp gỡ hết mọi người. Ngày nay Lời Chúa được đọc bằng tất cả mọi ngôn ngữ, mỗi người đều có thể đọc Tin Mừng bằng chính ngôn ngữ của mình. Và cha nhắc lại: Luôn luôn mang theo mình một cuốn sách Phúc Âm nhỏ là rất tốt, mang theo nó trong túi và đọc một một đoạn cho cả ngày. Điều này tốt cho chúng ta. Tin Mừng đã phổ biến bằng mọi ngôn ngữ bởi vì Giáo Hội, bản tuyên ngôn của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ, hiện diện trên toàn thế giới. Và vì lý do này, chúng ta gọi Giáo Hội là Công Giáo bởi vì Giáo Hội là phổ quát.
2. Nếu tự bản chất Giáo Hội là Công Giáo, thì có nghĩa là, tự bản chất, Giáo Hội là “ra đi” truyền giáo. Nếu các Tông Đồ đã chỉ ở trong phòng Tiệc Ly, không ra đi để rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội đã chỉ là Giáo Hội của những con người đó, của thành phố đó, của nhà tiệc ly đó. Nhưng, tất cả họ đã ra đi vào trong thế giới, từ giờ phút khai sinh của Giáo Hội, từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và vì vậy, Giáo Hội, tự bản chất, là “ra đi”, nghĩa là, được sai đi truyền giáo. Đó chính là điều chúng ta minh định Giáo Hội Tông Truyền. Thuật ngữ này nhắc nhớ chúng ta rằng Giáo Hội – dựa trên nền tảng các Tông đồ và trong sự tiếp nối các ngài – được mời gọi đem Tin Mừng đến với hết mọi người, kèm theo việc rao giảng đó là các dấu chỉ về sự yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa. Điều này cũng phát xuất từ biến cố Hiện Xuống: Thực vậy, chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta vượt qua được mọi chống đối, chiến thắng được những cám dỗ hầu không đánh mất chính mình, vượt qua được suy nghĩ rằng, phúc lành của Thiên Chúa chỉ dành cho một số ít những người được tuyển chọn và được cân nhắc …Nếu một nhóm những Kitô hữu nghĩ như vậy – “Chúng tôi là những người được tuyển chọn, chỉ có chúng tôi” – kết cục là họ chết. Họ chết về phần linh hồn trước khi họ chết về thể xác, bởi vì họ không có sự sống, họ không có khả năng làm phát sinh sự sống cho những người khác, những dân tộc khác. Họ không thuộc về Tông Truyền. Chính Thánh Thần dẫn chúng ta đi để gặp gỡ những người anh em của chúng ta, bao gồm cả những người không thân thiện, với mọi ý nghĩa, nhờ vậy họ có thể chia sẻ với chúng ta tình yêu, sự bình an, và niềm vui mà Chúa Phục Sinh đã để lại cho chúng ta như một ân huệ.

3. Đối với những cộng đoàn của chúng ta và đối với mỗi người, là thành phần của một Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền, chúng ta phải làm gì? Trước hết, đó là phải mang trong tâm hồn sự cứu độ của toàn thể nhân loại, không thờ ơ lãnh đạm hay là những người xa lạ trước số phận của rất nhiều những người anh em của chúng ta, nhưng mở ra trong tình liên đới với họ. Hơn nữa, đó là phải có được sự ý thức về sự viên mãn, sự trọn vẹn và hài hòa của đời sống Kitô hữu, luôn luôn tránh những thái độ cục bộ, đơn phương, điều mà chỉ đóng khung chúng ta vào chính mình.

Là thành phần của Giáo Hội Tông Truyền có nghĩa là phải ý thức rằng, đức tin của chúng ta được bám chặt vào việc loan báo và làm chứng của chính các Tông Đồ của Chúa Giêsu và, vì vậy, luôn luôn cảm thấy mình được sai đi, trong sự hiệp thông với những người kế vị các Tông Đồ, để, với một tâm hôn tràn ngập niềm vui, loan báo Đức Kitô và tình yêu của Ngài dành cho toàn thể nhân loại.

Và ở đây, cha muốn nhớ lại đời sống anh dũng của nhiều người, nhiều nhà truyền giáo đã rời bỏ quê hương của mình để ra đi rao giảng Tin Mừng tại các miền đất khác, nơi những lục địa khác. Một lần kia, một vị Hồng Y người Brazil làm việc ở vùng Amzon đã kể với cha rằng, khi ngài đi đến một nơi, tới một thành phố ở vùng Amzon, ngài luôn luôn đi đến nghĩa trang để viếng những ngôi mộ của các tông đồ là những nhà truyền giáo, các linh mục, các tu huynh và các nữ tu, những người đã đi rao giảng Tin Mừng. Và ngài nghĩ: tất cả những người này bây giờ đã có thể được phong thánh, họ là những người đã từ bỏ tất cả để rao giảng về Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Giáo Hội của chúng ta có nhiều nhà truyền giáo, đã có nhiều nhà truyền giáo, và tuy nhiên, cần nhiều hơn nữa! Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa về điều này. Có lẽ trong số nhiều những người trẻ, những thanh niên và thiếu nữ đang ở đây, một số có nguyện vọng trở thành một nhà truyền giáo: hãy tiến lên! Đó là điều tốt đẹp để giới thiệu Tin Mừng của Chúa Giêsu. Hãy gan dạ và can đảm lên!

Giờ đây chúng ta hãy cầu xin Chúa làm mới lại trong chúng ta ân huệ Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mỗi cộng đoàn Kitô hữu và mỗi người đã được rửa tội là một biểu xuất của Mẹ Hội Thánh, Công Giáo và Tông Truyền.

Chuyển ngữ: Hoàng Quốc Việt.

CÁC GIA ĐÌNH, CHÚA KITÔ MỜI GỌI CHÚNG TA: HÃY GIEO TRỒNG NIỀM VUI VÀ NIỀM HY VỌNG!

Công việc quan trong nhất của thế giới là gì? Một cuộc khảo sát mang tính quốc tế về phạm vi rộng lớn của con người từ khắp thế giới đã tìm ra một câu trả lời đáng ngạc nhiên: Việc nôi dưỡng một đứa trẻ! Số đông những người được hỏi đã nói rằng, không có gì quan trọng đối với tương lai của nhân loại hơn là việc giáo dục trẻ thành niên có khả năng dấn thân để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn.

Như các bạn đã có thể đoán, bản khảo sát này đã không bao giờ xuất hiện! Nhưng ai đó vẫn có thể hy vọng một ngày nào đó, xã hội sẽ nhận biết được sự đóng góp cơ bản của thành phần quan trọng nhất của nó – Gia Đình – và chọn lựa để trợ giúp các bậc cha mẹ, những người muốn dành nhiều thời giờ và năng lực hơn cho việc nuôi dưỡng con cái của họ.

Trong kế hoạch tổng thể của tình yêu Thiên Chúa, ngay từ lúc khởi đầu của thời gian, gia đình đã nhận được ơn gọi quan trọng của mình: đó là việc thăng tiến sự sống …”Thiên Chúa sáng tạo dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất'” (St 1, 27-28). Mỗi đứa trẻ được sinh ra đều nằm trong ý định của Thiên Chúa và được Ngài yêu thương. Mỗi một đứa con được sinh ra là một cá thể riêng biệt, duy nhất và không thể thay thế – thực sự là một quà tặng của Thiên Chúa cho một gia đình và cho xã hội.

“Gia đình là nơi mà người ta học để yêu; nó là tâm điểm thuộc bản chất của đời sống con người. Nó được hình thành bởi những khuôn mặt, bởi những người yêu nhau, nói chuyện với nhau, hy sinh cho những người khác và bảo vệ sự sống, cách đặc biệt, nó được hình thành bởi những con người mỏng dòn và yếu đuối nhất” (ĐGH Phanxicô, Cuộc Họp Toàn Thể lần thứ 21 của Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình tại Rôma ngày 25 tháng 10 năm 2013). Gia đình là một mảnh đất mầu mỡ cho những nhà kiến tạo hòa bình tương lai và những nhà cổ động của một nền văn minh mới của sự sống và yêu thương.

Trưởng Thành Về Nhân Tính

Gia đình là nơi đầu tiên đứa trẻ đi vào tương quan với những người khác. Được bao bọc bởi cha mẹ và các anh chị, những đứa trẻ dần dần học biết để tin tưởng vào chính mình và những người khác. Mỗi đứa trẻ khám phá ra điều nó thuộc về mà không cần phải tìm kiếm, nó đáng được yêu và tôn trọng với những phẩm chất, sức mạnh và sự yếu đuối của riêng nó. Vì vậy được chấp nhận và được yêu vì nó thực sự như nó là, đến lượt mình, đứa trẻ trở nên có khả năng để yêu.

Trong cái riêng tư của gia đình, những đứa trẻ có thể phát triển nhân cách của chúng và kinh nghiệm được sự trưởng thành về tâm cảm. Chúng học để đối thoại và giao tiếp, và trở nên ý thức về phẩm giá của chính mình và của những người khác. Với mỗi ngày qua đi, cha mẹ chúng – những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu – truyền tải những giá trị của họ cho chúng. Nếu cha mẹ dựa vào Tin Mừng để đưa ra những nguyên tác sống cho đời sống gia đình của họ, họ sẽ đào tạo sự ý thức và hiểu biết của con cái họ trong ánh sáng của đức tin. Dần dần, những đứa trẻ sẽ hiểu được rằng chúng được mời gọi sử dụng những tài năng của chúng để phục vụ những người khác, trong tình yêu và sự thật.

Những người trẻ, trưởng thành trong một gia đình, nơi mà Thiên Chúa là nền tảng cho mọi giá trị của họ, cũng nhận ra chúng phải chọn lựa giữa việc “sống cho bản thân mình hay sống cho Thiên Chúa và những người khác; sống để được phục vụ hay để phục vụ; sống theo bản ngã của mình hay vâng theo ý Chúa. […] Theo Chúa Giêsu buộc phải từ bỏ điều xấu và sự ích kỷ để chọn điều tốt, sự thật và sự công chính, ngay cả khi điều này đòi hỏi sự hy sinh và sự từ bỏ những điều thích thú của riêng mình […] Theo Chúa Giêsu nghĩa là phải toàn tâm toàn ý, bởi vì đức tin không phải là một sự trang trí bên ngoài, nó là một sức mạnh của linh hồn!” (ĐGH Phanxicô, Kinh Truyền Tin, ngày 18 tháng 8 năm 2013)

Trong thời kỳ Tân Phúc Âm Hóa này, nhu cầu đào tạo những người môn đệ và những chứng nhân cho Chúa Kitô ngay trong chính gia đình là cấp bách hơn bao giờ hết. Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự kết hợp vợ chồng của mình, các bậc cha mẹ rút ra từ ân sủng của Bí Tích Hôn Phối sức mạnh để xây dựng gia đình của mình; vì vậy họ cố gắng yêu, phục vụ, chào đón và tôn trọng mỗi đứa trẻ và thăng tiến sự sống cho nó từ giây phút thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên.

Đó không phải là ý nghĩa của việc trưởng thành về nhân tính sao: làm cho tình yêu lớn lên, làm cho sự sống phát triển?! Không sự phải trưởng thành về nhân tính có nghĩa là, trước hết và trên hết, người chồng nỗ lực để “làm cho vợ mình trở thành một người phụ nữ tốt hơn và vợ làm cho chồng mình trở thành một người đàn ông tốt hơn” đó sao?! (ĐGH Phanxicô, buổi gặp gỡ với hơn 10 ngàn đôi nam nữ đã đính hôn nhân ngày Lễ Tình Nhân tại Rôma, ngày 14 tháng 2 năm 2014) Hãy có tình yêu giữa cha mẹ và con cái, và giữa anh chị em với nhau. Lời cầu nguyện của gia đình, trong tính đơn thuần của nó, diễn tả rằng những thành viên của gia đình dựa trên đá tảng của tình yêu Thiên Chúa: “Lạy Chúa, hôm nay xin cho chúng con tình yêu hằng ngày của chúng con; xin cho tình yêu của chúng con được phát triển!” Họ cầu nguyện cho nhau (Đọc kinh Lạy Cha và lần chuỗi Mân Côi, hay cầu nguyện trước bữa ăn, hoặc trong giờ chầu Thánh Thể, v.v.), không bao giờ quên cầu nguyện cho ông bà nội ngoại. Mọi người đều đồng ý với nhau với câu nói: “Một gia đình cầu nguyện với nhau là sống với nhau”.

Nhận Biết Khuôn Mặt Của Chúa Giêsu

Những thói quen tốt là những nguyên tắc cơ bản để các cặp vợ chồng và các gia đình đạt đến sự trưởng thành trong tình yêu. Ví dụ, thật quan trọng khi biết khiêm nhường nói những lời như: “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi” – càng nhiều càng tốt. Một thói quen khác nữa để xây dựng tình yêu là việc chắc chắn biết dùng thời gian để nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Lời của Thiên Chúa và Bành hằng sống của Ngài, cũng như cảm nghiệm được lòng thương xót của Ngài nơi Bí Tích Hòa Giải.

“Việc tham dự Thánh Thể thực sự sẽ đụng chạm vào tâm hồn và đời sống của chúng ta; việc này không thể bị giới hạn vào những giờ phút thanh vắng, không có sự tác động nào trên đời sống của chúng ta. […] Bởi vì Chúa Giêsu đã trao ban chính mình để tha tội, Thánh Lễ có cho chúng ta ơn sủng để cảm thấy được tha thứ, và đến lượt mình, tha thứ cho người khác không?”

“Nơi Bí Tích Thánh Thể, Chúa Kitô tiếp tục việc trao ban chính mình mà Ngài đã thực hiện trên Thập Giá. Toàn bộ đời sống của Ngài là một hành động của việc chia sẻ trọn vẹn chính mình vì tình yêu; vì lý do này mà Ngài đã yêu để ở với các môn đệ và với những ai Ngài đã có thể biết. Đối với Ngài, điều này có nghĩa là chia sẻ những khát vọng, những vấn đề của họ, những điều đã làm cho tâm hồn họ bối rối và cuộc sống của họ bị xáo trộn. Bây giờ, khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, khi chúng ta gặp gỡ những người đàn ông và phụ nữ thuộc mọi giới: thanh niên, người già, trẻ em, người nghèo và người giầu có, những người bản xứ và ngoại kiều, chúng ta đã đi cùng với những người thân hay đi một mình…
“Thánh Thể mà tôi cử hành có thực sự giúp tôi nhìn tất cả họ (những người tôi gặp gỡ trong Thánh Lễ) như là những anh chị em không? Thánh Thể mà tôi cử hành đó có làm tăng khả năng của tôi để vui với người vui, và khóc với người khóc không? Thánh Thể mà tôi cử hành đó có dẫn tôi đi đến với những người nghèo, người yếu đau và những người bị bỏ rơi bên lề xã hội không? Thánh Thể mà tôi cử hành đó có giúp tôi nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi những con người đó không?” (ĐGH Phanxicô, Bài Giáo Lý của ngày 12 tháng 2 năm 2014, tại Quảng Trường Thánh Phêrô)

Một Con Tim Nhạy Bén Và Hành Động

Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhưng những người anh chị em chung quanh chúng ta này là ai, người thấp kém nhất giữa anh chị em của chúng ta, những người mà chúng ta cần để ý đến? Họ là ai mà chúng ta có thể đưa con cái của chúng ta đến với họ để dạy cho chúng biết cho đi cách nhưng không, biết động lòng chắc ẩn và biết quảng đại? Con cái của chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta, những Kitô hữu, sẽ luôn luôn kiếm tìm để nhận biết những anh chị em của chúng ta trong gia đình nhân loại, những người đang cần sự trợ giúp, để “chữa lành những thương tích, bắc những nhịp cầu, củng cố những mối tương quan và mang lấy những gánh nặng cho nhau (Gl 6, 2)” (ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, 6, 7).

Có thể là một người bà đôi khi thấy nhàm chám vì xem tivi cả tuần? Và, có thể là người hàng xóm lớn tuổi cần sự giúp đỡ đưa đi bác sĩ? Gia đình của những người tỵ nạn vừa mới đến ở trong giáo xứ của chúng ta có đủ thực phẩm để ăn không? Có thể làm điều gì cho người vị thành niên này đang phải sống với cái bào thai ngoài ý muốn, cho người anh em họ này bị thất nghiệp, cho cặp vợ chồng này mới có người con trai tự tử, cho người mẹ này và những đứa con của chị đang phải đau khổ vì kết cục của một cuộc ly hôn? Có thể làm được gì cho gia đình này đang bị khủng hoảng, cho người đồng nghiệp bị khuyết tật gặp khó khăn khi phải đi làm việc vào mùa đông, cho một đứa trẻ trong một đất nước chưa phát triển không có gì để ăn, cho người ông này vừa mới được đưa vào nhà dưỡng lão, hay cho người bạn bị bệnh giai đoạn cuối đó vừa mới nhập viện?
Một con tim nhạy bén là tất cả những gì chúng ta cần để phát triển khả năng nhận ra được những người đang bị tổn thương, những người đang buồn sầu, những người đang tuyệt vọng; rất nhiều người đang sợ hãi, rất nhiều người đang khát tình yêu, lòng thương xót, tình liên đới và sự âu yếm dịu dàng – họ khao khát một sự hiện diện bên cạnh họ. “Một chương trình của Kitô hữu – chương trình của người Samaritanô nhân hậu, chương trình của Chúa Giêsu – là để làm phát triển một con tim có thể nhạy bén. Con tim nhạy bén này thấy được những nơi đang cần tình yêu và hành động theo như điều đã thấy” (ĐGH Bênêđictô XVI, Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, 31).

Ba Loại Nghèo

“Noi gương Thầy Chí Thánh, chúng ta, những Kitô, được mời gọi để đương đầu với cảnh nghèo của anh chị em chúng ta, đụng chạm đến nó, gánh lấy và làm những gì cụ thể để xoa dịu nỗi khốn cùng ấy. Cảnh khốn khổ không đồng nghĩa với nghèo: khốn khổ là nghèo mà không có niềm tin tưởng, không được sự nâng đỡ, không có niềm hy vọng. Có ba loại khốn khổ: khốn khổ về vật chất, về luân lý và về tâm linh. Khốn khổ vật chất là điều thường được gọi là nghèo, và tác động đến những người sống trong những điều kiện nghịch lại với phẩm giá con người: đó là những người thiếu các quyền lợi và nhu cầu cơ bản như lương thực, nước, vệ sinh, việc làm, cơ hội phát triển và tăng trưởng về văn hóa. […] Nơi người nghèo và người bị bỏ rơi, chúng ta nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô; qua việc yêu thương và giúp đỡ người nghèo, chúng ta yêu mến và phục vụ Đức Kitô. Những nỗ lực của chúng ta cũng nhắm đến việc chấm dứt những vi phạm đến phẩm giá con người, những kỳ thị và lạm dụng trên thế giới, vì những điều này thường là nguyên nhân của những khốn khổ. Khi quyền lực, sự sa hoa và tiền bạc trở thành những thần tượng, chúng sẽ chiếm quyền ưu tiên trên nhu cầu cho một sự phân phối công bằng về của cải. Vì thế, lương tâm chúng ta phải được hoán cải, trở về với công lý, bình đẳng, hồn nhiên và chia sẻ.

“Không kém phần gây lo âu là tình trạng khốn khổ về luân lý, một sự khốn khổ vì sống trong sự nô lệ cho tật xấu và tội lỗi. Có biết bao gia đình đau khổ vì có một thành viên trong gia đình, thường là một người trẻ, nô lệ cho rượu, ma túy, cờ bạc hay dâm ô! Biết bao người không còn thấy được ý nghĩa cuộc sống hay viễn tượng cho tương lai, bao người đã mất niềm hy vọng! Và bao người bị nhận chìm vào cảnh khốn khổ này vì những điều kiện xã hội bất công, vì nạn thất nghiệp, điều mà tước mất phẩm cách của họ là những người trụ cột nuôi sống gia đình, và vì thiếu sự bình đẳng về quyền được hưởng giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Trong những trường hợp ấy, sự khốn khổ về luân lý có thể được coi như thể sẽ dẫn đến sự tự sát. Loại khốn khổ này, cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế suy sụp, luôn gắn liền với tình trạng khốn khổ về tâm linh, điều mà chúng ta cảm nhận được khi quay lưng lại với Thiên Chúa và khước từ tình yêu của Ngài. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta không cần Thiên Chúa, Đấng đưa tay ra nắm lấy chúng ta qua Chúa Kitô, vì chúng ta tin mình có thể tự sống được, thì chúng ta sẽ bị thất bại. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thực sự cứu và giải thoát chúng ta.

“Tin Mừng là loại thuốc giải đích thực cho căn bệnh khốn khổ về tâm linh: dù đi bất cứ đâu, chúng ta cũng được mời gọi, như những Kitô hữu, để loan tin giải thoát rằng tội đã phạm sẽ được thứ tha, Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi chúng ta, và Ngài hằng yêu thương chúng ta một cách nhưng không, và chúng ta được tạo dựng cho sự hiệp thông và sự sống vĩnh cửu. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên những sứ giả vui mừng của sứ điệp về lòng thương xót và niềm hy vọng này!” (ĐGH Phanxicô, Sứ Điệp Mùa Chay 2014)

Sống Với Phẩn Giá … Cho Đến Cùng

Một con tim nhạy bén trước những người khác sớm muộn gì thì cũng phải đối diện với một câu hỏi lớn: điều gì cấu thành nên giá trị và phẩm giá của một con người? Ngày nay, không phải mọi người điều đống ý với nhau về câu trả lời. Một số người, bị ảnh hưởng bởi chính những người vận động quốc gia và toàn cầu, từ chối để đánh mất sự độc lập của mình, hay trông chờ được giúp đỡ trong khi đó những năng lực về thể chất và tinh thần của họ trở nên xấu hơn. Bởi vì họ sợ sự đau đớn, hay bởi vì họ quan tâm đến việc trở thành một “gánh nặng” đối với những người họ yêu thương, nên họ đòi quyền được “chết với những phẩm giá”. Để đạt được mục đích này, họ muốn được tự do chọn lựa thời gian và địa điểm cho cái chết của họ, và nó sẽ xảy ra thế nào – hoặc là chết êm dịu hay là an tử, nhưng luôn luôn với sự giúp đỡ của người thứ ba. Câu hỏi được đặt ra cho họ là: sống cái gì để đáng sống.

Và bất chấp tất cả điều này, thực tế là, hơn 40 năm qua, nhóm chuyên gia về y tế đã phát triển giao thức kiểm soát cơn đau để đảm bảo việc chăm sóc lúc cuối đời cách phù hợp. Việc chăm sóc y tế, xã hội, tình cảm và tinh thần cũng có sẵn cho những người cận kề cái chết, làm cho người bệnh có thể sống cuộc sống của họ cho đến khi chết tự nhiên, và họ làm như vậy với lòng can đảm. Đây là những gì mà việc chăm sóc tạm làm giảm nhẹ nhắm đến: cho phép mọi người đi qua cuộc sống – và cái chết – với nhân phẩm của mình.

Được lớn lên trong một gia đình, chúng ta biết rằng chúng ta là những con người sống với các mối tương quan; rằng chúng ta có khả năng yêu thương và chăm sóc cho những người khác. Sự tôn trọng mà chúng ta có đối với người bệnh hay người tàn tật sẽ ảnh hưởng lớn đến nhận thức của họ về phẩm giá của chính bản thân họ. Cách chúng ta nhìn những người này như thế nào ảnh hưởng đến cách họ nhìn chính bản thân họ?! Một người có bệnh hoặc tàn tật là một con người giống như bất kỳ ai khác. Một con người không thể bị giảm giá trị vì bệnh tật hoặc khuyết tật của người đó. Những người khuyết tật hoặc những người bệnh cũng có những cảm giác tương tự những người khác, có cùng những nhu cầu, những khát vọng và những ước mơ lành mạnh. Một sự thờ ơ, lơ đãng trong ánh mắt, hoặc tệ hơn, một cái nhìn khó chịu hay thương hại, thực sự có thể gây ra sự tổn thương.

Tất cả chúng ta đều có sức mạnh để đối phó với bệnh tật của những người khác trong tình bạn hữu, tình yêu và tình liên đới; chúng ta có thể hỗ trợ và bảo vệ “quyền được sống” của họ cho đến lúc chết tự nhiên. Chúng ta cần nhau trong cái chết cũng giống như cần nhau trong cuộc sống. Từ khi sinh ra cho đến chết, tất cả chúng ta, ít nhiều, đều phụ thuộc vào nhau. Có thể tự lập mọi sự là một sự ảo tưởng, một giấc mơ không thể.

Được Tạo Dựng Giống Hình Ảnh Thiên Chúa

Phẩm giá con người dựa trên giá trị vốn có của mỗi người, một giá trị không thể bị lấy đi bởi hoàn cảnh hoặc các yếu tố bên ngoài như sức khỏe. Phẩm giá con người không bắt nguồn từ một “chất lượng cuộc sống”, mà theo những người đề xướng cho cái chết theo yêu cầu, thì “chất lượng cuộc sống” đó, đúng hơn, được xác định bởi sức khỏe thể chất hoặc tâm thần, sự tự lập, năng suất hay “hữu ích” cho xã hội.

Thực vậy, chỉ có con người mới trao tặng phẩm giá này, điều mà không có sinh vật sống nào khác sở hữu. Hơn nữa, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nhân phẩm thật tuyệt vời!

“Một xã hội thực sự mở ra cho sự sống khi nó nhận ra rằng sự sống là quý giá ngay cả nơi những người cao tuổi, người tàn tật, và thậm chí cả ở những người bị bệnh nặng hoặc đang trong lúc sinh thì; khi xã hội đã khẳng định rằng lời mời gọi tới việc nhận ra nhân tính của một người không loại trừ đau khổ, và thay vào đó dạy làm thế nào để nhìn những người bệnh và những người đau khổ như là quà tặng cho toàn thể cộng đồng, mà sự hiện diện của những người bệnh và đau khổ mời gọi mọi người tới tình liên đới và trách nhiệm. […] Các bằng chứng được cung cấp bởi gia đình trở nên quan trọng trong tầm nhìn của mọi khía cạnh của xã hội với sự khẳng định nhất quán về tầm quan trọng của người cao tuổi như người đó là một chủ thể của cộng đồng, những người có một nhiệm vụ để hoàn thành, và về những người mà, luôn luôn là sai khi nói họ là những người chỉ nhận mà không đóng góp bất cứ điều gì ” (ĐGH Phanxicô, Thông Điệp Hội Nghị Toàn Thể của Hoc Viện Giáo Hoàng về Sự Sống, Vatican, 20 tháng 2 năm 2014). Thông điệp quá rõ ràng: mỗi cuộc sống là đáng sống đến cùng.

Chúng Ta Hãy Loại Trừ Nền Văn Hóa “Vứt Bỏ”

Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết luận rằng, do bị chi phối bởi logic học kinh tế không ngừng, vấn đề lớn của xã hội chúng ta là “chúng ta đã tạo ra một nền văn hóa ‘vứt bỏ’ mà hiện nay đang lan rộng. […] Những người bị loại trừ không phải là những người bị bóc lột’ nhưng là đồ bỏ, ‘là đồ thừa'” (ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, 53), bắt đầu từ những người cao tuổi – đặc biệt là, nếu vì một lý do này hay lý do khác, họ bị bệnh, tàn tật hoặc bị tổn thương.

An tử không phải là mối đe dọa duy nhất đối với những người cao niên dễ bị tổn thương và những người khuyết tật. Bởi thường là rất khó khăn cho họ để đi loanh quanh, và bởi vì họ sống một mình, nhiều người lảng tránh việc tìm kiếm sự chăm sóc y tế. Sau đó, có sự gia tăng của một tâm lý thực dụng nhất định dẫn một số công dân đến việc tố cáo việc sử dụng công quỹ để điều trị cho những người mà theo họ, không còn đóng góp cho xã hội và đã trở thành một gánh nặng. Những người khác tin rằng những người này đã được hưởng lợi đầy đủ từ chế độ, và cho rằng, thật là khôn ngoan khi biết tránh lãng phí nguồn lực cho việc điều trị cho những người mà dù sao sớm muộn gì cũng chết. Tóm lại, họ đã trở thành “đồ đã qua sự dụng”, cần phải vứt bỏ.

Không có công dân nào từng phải hình dung rằng mình sẽ bị cướp đi cuộc sống vì những khát mong, những cảm xúc và đau khổ của chúng ta. “Thiếu sức khỏe hoặc thực trạng của một người khuyết tật không bao giờ là lý do hợp lệ để loại trừ hoặc, và còn gì tồi tệ hơn, là việc loại bỏ những con người. Sự tước đoạt nghiêm trọng nhất mà những người cao tuổi đã trải qua không phải là sự suy yếu về thể chất của một con người, cũng không phải là sự khuyết tật. Đúng hơn, đó là sự ruồng bỏ, sự loại trừ và thiếu thốn tình cảm” (ĐGH Phanxicô, Thông Điệp Hội Nghị Toàn Thể của Hoc Viện Giáo Hoàng về Sự Sống, Vatican, 20 tháng 2 năm 2014).

Đây không phải là lúc dừng lại để nhìn xem tuổi già là một vấn đề, và những người lớn tuổi như là một gánh nặng phải không? Sự khôn ngoan Kitô giáo giúp chúng ta hiểu rằng lão hóa là một phần bình thường của cuộc sống, và khuyến khích chúng ta sống những đức hạnh của đạo đức: sự tôn trọng, biết ơn đối với cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Chính nhờ có các ngài mà chúng ta đang sống hôm nay. Họ là những người đã cho chúng ta sự sống, nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục chúng ta. Đến lượt mình, khi các ngài bước vào tuổi già, chúng ta phải giúp đỡ các ngài , vì các ngài cần chúng ta. Chúng ta phải là những người để các ngài có thể cậy dựa vào, và phải chu cấp cho các ngài với lòng yêu mến, sự chăm sóc và thời gian.

“Trong Thông Điệp Tin Mừng Sự Sống, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói về sự cần thiết để phục hồi ‘giao ước giữa các thế hệ’: ý tưởng đó là, mỗi thế hệ mắc nợ và có được những điều nào đó từ các thế hệ trước và sau nó. […] Làm thế nào, ví dụ, chúng ta có thể đảm bảo rằng hệ thống pháp luật, hệ thống y tế của chúng ta và hệ thống an sinh xã hội không gây bất lợi cho những người già và những người khuyết tật? Làm thế nào, như là một Giáo Hội, chúng ta có thể giúp cho họ tốt hơn về tinh thần, tình cảm và những cách khác? Và một lần nữa, chúng ta đặt những câu hỏi này không phải vì chúng ta nhìn những người cao tuổi hoặc những người khuyết tật như là một vấn đề, nhưng vì chúng ta xem họ như những thành viên bình thường trong cộng đồng, những người có những nhu cầu và khả năng đặc biệt, như tất cả chúng ta có trong những giai đoạn khác nhau của cuộc sống của chúng ta” (ĐGM Anthony Fisher, Bài trả lời phỏng vấn với Hãng Thông Tấn Zenit, ngày 21 tháng 2 năm 2014).

Thách đố mà hiện nay chúng ta đang phải đối mặt là đặt những người bệnh tật ở trung tâm của gia đình và cộng đồng của chúng ta, và cầu nguyện cho họ và với họ. Tóm lại, chúng ta phải bắt chước thái độ của Chúa Giêsu đối với tất cả những người bệnh và yếu đau, chăm sóc họ, chia sẻ với họ sự đau khổ và giúp họ giữ được niềm hy vọng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyến khích “các gia đình, nơi mà việc chăm sóc một người bệnh là điều bình thường”, biết rằng tình hình có thể trở nên rất nặng nề, ‘Tôi nói với họ rằng: Đừng sợ bị tổn thương! Hãy giúp đỡ lẫn nhau trong tình yêu, và các bạn sẽ cảm thấy sự hiện diện an ủi của Thiên Chúa'”. (ĐGH Phanxicô, Bài suy niệm nhân dịp lễ Đức Mẹ Lộ Đức và ngày cầu nguyện cho bệnh nhân, ngày 11 tháng 2 năm 2014)

“Tự Trong Thâm Tâm, Ai cũng Sợ …”

Dành chút thời gian để suy gẫm, chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta đều dễ bị tổn thương. “Chúng ta được sinh ra rất mong manh, và chúng ta chết cũng rất mong manh. Trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta cũng dễ bị tổn thương, và có nguy cơ bị thương” (Trích dẫn từ một website dành cho Jean Vanier (http://fondation-larche.org/english/LArche/Founder.html). Với Marie-Hélène Mathieu, ông cũng thiết lập phong trao quốc tế “Đức Tin và Ánh Sáng” (http://www.faithandlight.org/), đây là sự quan sát của Jean Vanier – một trong những nhà nhân văn Kitô giáo lớn của thời đại chúng ta. Là người kiến tạo hòa bình, người bênh vực cho những người dễ bị tổn thương, một người của tình thương và lòng từ bi, Vanier đã thành lập cộng đồng L’Arche vào năm 1964 để cung cấp một môi trường sống và một gia đình cho những người khuyết tật tâm thần. Đối với ông, mỗi người là một “câu chuyện thánh thiêng”.

Những người đàn ông và những người phụ nữ, một số bị khuyết tật trí tuệ và những người khác thì không, hiện đang sống tại hơn 150 cộng đồng L’Arche rải rác khắp bốn mươi quốc gia trên toàn thế giới. Cùng nhau, họ là những người điển hình cho một viễn cảnh về một thế giới, nơi mà những người yếu nhất và những người mạnh nhất luôn cần đến nhau để được hoàn thiện, được hạnh phúc và sống trong sự hòa hợp.

Kinh nghiệm đã thuyết phục Jean Vanier rằng “những người bất lực và dễ bị tổn thương thu hút những gì là đẹp nhất và sáng nhất nơi những người mạnh mẽ hơn” (Trích dẫn từ một website dành cho Jean Vanier (http://fondation-larche.org/english/LArche/Founder.html). Với Marie-Hélène Mathieu, ông cũng thiết lập phong trao quốc tế “Đức Tin và Ánh Sáng” (http://www.faithandlight.org/). Những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta có khả năng biến đổi một cách sâu sắc những người đến sống hoặc kết bạn với họ. Cách nào đó, họ là những người kiến tạo hòa bình. Đây là một nhận định cũng được áp dụng giống như thế đối với những người bệnh và người già cả.

“Sinh mệnh mong manh nhất buộc chúng ta phải chấp nhận sự mỏng dòn của mình và sự chấp nhận sự yếu này của chúng ta dẫn chúng ta đến sự đối thoại, cởi mở và hòa bình với những người khác. Tuy nhiên, các yêu cầu của một xã hội nơi mà chúng ta phải trở nên hoàn hảo, không có sai sót hoặc những vấn đề, và ngăn chặn quyền phạm những sai lầm, đặt chúng ta trong một sự căng thẳng thường xuyên với chính mình và với những người khác” (Trích dẫn từ một website dành cho Jean Vanier (http://fondation-larche.org/english/LArche/Founder.html). Với Marie-Hélène Mathieu, ông cũng thiết lập phong trao quốc tế “Đức Tin và Ánh Sáng” (http://www.faithandlight.org/).

Ngày 1 tháng 1 năm 2014, Jean Vanier đã gởi thông điệp này nhân dịp lần đầu tiên của chương trình “24 Giờ Cho Hòa Bình Thế Giới”:

“Mọi người đều hoảng sợ … Hoảng sợ bởi điều gì? Hoảng sợ về những gì là khác biệt […] Trong các cộng đoàn L’Arche của chúng tôi, chúng tôi tiếp đón những người khác nhau … Họ khác nhau vì khuyết tật của họ, hoặc có lẽ bởi vì tôn giáo của họ, họ khác nhau. Khó khăn lớn với những người chúng tôi tiếp đón, những người khuyết tật trí tuệ, là họ đã bị làm nhục. Sỉ nhục là cảm giác rằng không ai muốn tôi, rằng tôi không được yêu. Vì vậy, toàn bộ vấn đề khi bạn tiếp đón một người nào đó là để giúp anh ta nhận ra rằng anh ta đẹp hơn như anh thấy, và anh ta cũng là một con người. Giúp cho anh ta nhận ra rằng, đằng sau tình trạng khuyết tật và những khó khăn của anh ta thì vẫn còn đó chính con người anh.

“[…] Để hội nhập với văn hóa của người khác đòi hỏi phải có sự khiêm tốn, có nghĩa là chấp nhận để mất điều nào đó, để mất một ưu thế nhất định. Chính điều này giúp chúng ta khám phá ra rằng, tất cả chúng ta đều là con người, với những điểm yếu, sự nghèo nàn, nhỏ bé của chúng ta. Có thể chúng ta có những văn hóa khác nhau, những khả năng khác nhau, nhưng về cơ bản tất cả chúng ta đều là những con người được sinh ra trong sự yếu đuối và chúng ta cũng sẽ chết trong sự yếu đuối. Trong khi đó, chúng ta phải trở nên có trách nhiệm, và sau đó trở nên mong manh hơn” (Jean Vanier, thông điệp này nhân dịp lần đầu tiên của chương trình “24 Giờ Cho Hòa Bình Thế Giới” (http://www.24hoursforworldpeace.org/en/content/message-jean-vanier).

“Kinh nghiệm của tôi ở L’Arche đã giúp tôi khám phá ra rằng những người yếu đuối, nhỏ bé, khuyết tật là những sứ giả của hòa bình. Nhờ sự hiện diện và những cử chỉ của họ, họ mở rộng con tin của chúng ta hướng đến việc hiểu biết và lòng trắc ẩn hơn là khơi dạy sự sợ hãi. Trong một cách thế nhiệm mầu, họ phá tan những rào cản vây quanh con tim của chúng ta.” (Jean Vanier)

“Hãy Vui Luôn”

Lòng trung thành, sự kiên nhẫn, sự cởi mở với cuộc sống, và sự tôn trọng người cao tuổi – đây là tất cả những đặc tính làm cho các gia đình Kitô giáo trở thành “Tin Mừng” cho xã hội chúng ta. Đó là sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi tất cả những gì là khác biệt. Tại sao giấu kín nó?

Vâng, đây chính là lúc để chia sẻ với những người khác bí quyết hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta đang chờ đợi gì trước khi dũng cảm và trân trọng cho họ biết nhân phẩm tuyệt với nhất của họ như là con cái Thiên Chúa và đặc tính thánh thiêng của cuộc sống của họ; để giúp họ khám phá vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình đã được biết đến nhờ Tin Mừng? Chúng ta đang chờ đợi gì trước khi nói với họ rằng “những thử thách, sự hy sinh và những khủng hoảng của các cặp vợ chồng, cũng như của gia đình, như một toàn thể, mô tả những con đường cho sự phát triển trong sự tốt lành, sự thật và vẻ đẹp”? (ĐGH Phanxicô, Cuộc Họp Toàn Thể lần thứ 21 của Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình tại Rôma ngày 25 tháng 10 năm 2013)

Chúng ta đang chờ đợi gì trước khi nói với họ rằng, chỉ mình Đức Kitô mới có thể mặc khải ý nghĩa trọn vẹn của cuộc sống của họ; họ chỉ có thể triển nở hoàn toàn bằng cách đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa; họ sẽ không bao giờ đơn độc mình một khi họ biết mở cuộc đời họ ra với Chúa Kitô, và khám phá nơi Giáo Hội kho tàng của Lời Chúa, các bí tích và tình bằng hữu với anh chị em, những người sẽ cùng bưới đi với họ tới mục tiêu cuối cùng, nơi mà họ sẽ tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống của họ: hạnh phúc vĩnh cửu trong Trái Tim của Thiên Chúa.

Nhiều người khác – thường vô tình – cũng giống như chúng ta “nghèo trong tình yêu, khao khát chân lý và công lý, những người hành khất của Thiên Chúa. Trong thực tế, hình thức lớn nhất của nghèo đói là thiếu Chúa Kitô và cho đến khi chúng ta mang Chúa Giêsu đến cho những người khác, chúng ta sẽ không bao giờ làm cho họ lấy làm đủ.” (ĐGH Phanxicô, sứ điệp gởi cho Đức Cha Francesco Lambiasi, Giám Mục giáo phận Rimini, nhân dịp “Hội Nghị Tình Hữu Nghị Giữa Các Dân Tộc” lần thứ 34, từ ngày 18 – 24 tháng 8 nam 2013)

Đã đến lúc gia đình Kitô giáo chúng ta phải trở thành gia đình truyền giáo – để vượt qua nỗi sợ hãi và bảo vệ Sự Sống! Hãy truyền bá niềm hy vọng và niềm vui của chúng ta! Tất cả chúng ta phải lắng nghe chính mình: “Hãy vui luôn … Chúa đã đến gần” (Pl 4, 4 – 5).

“Cho thì có phúc hơn là Nhận” (Cv 20, 35)

(Thông Điệp của Tổ Chức Công Giáo Canada về Sự Sống và Gia Đình (COLF) được phát hành ngày 10 tháng 9 năm 2014).

Chuyển ngữ: Hoàng Quốc Việt

NHỮNG VIỆC LÀM CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Bài Giáo Lý Của Đức Giáo Hoàng Phanxicô Trong Buổi Tiếp Kiến Chung, Ngày 10 Tháng 9 Năm 2014, tại Quảng Trường Thánh Phêrô.

Anh chị em thân mến,

Trong lộ trình giáo lý của chúng ta về Giáo Hội, chúng ta dừng lại để suy gẫm về Giáo Hội như một người mẹ. Lần trước chúng ta đã nhấn mạnh đến cách thức mà Giáo Hội làm cho chúng ta lớn lên, và với ánh sáng và sức mạnh của Lời Chúa, chỉ cho chúng ta con đường cứu độ, và bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ. Hôm nay, cha muốn nhấn mạnh đến một lãnh vực riêng biệt khác của công việc mang tính giáo dục này của Mẹ Giáo Hội, đó là, cách Giáo Hội dạy chúng ta về những việc làm của lòng thương xót.

Một người thầy giỏi tập trung vào những điều chính yếu. Người đó không bị lạc đề trong những chi tiết, nhưng muốn truyền đạt những điều thực sự đáng quan tâm để rồi đứa trẻ hay sinh viên tìm ra được ý nghĩa và niềm vui của cuộc sống. Đó là sự thật! Và theo Tin Mừng, điều chính yếu chính là lòng thương xót. Trong Tin Mừng, điều chính yếu là lòng thương xót! Thiên Chúa đã gởi Con của Ngài đến! Thiên Chúa đã làm người để cứu chúng ta, nghĩa là, Ngài trao ban cho chúng ta lòng thương xót của Ngài. Về điều này, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng khi tóm tắt giáo huấn của Ngài cho các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36).

Có thể tồn tại một người Kitô hữu mà người đó không có lòng thương xót? Không! Một người Kitô hữu phải biết thương xót bởi vì đây là điểm trung tâm của Tin Mừng.

Trung thành với giáo huấn này, Giáo Hội chỉ có thể lập lại cùng một điều với con cái mình: “Hãy thương xót”, như Chúa Cha và như Chúa Giêsu. Hãy Thương Xót!

Và vì vậy Giáo Hội hành xử như Chúa Giêsu. Giáo Hội không đưa ra những bài học mang tính lý thuyết về tình yêu và về lòng thương xót. Giáo Hội không truyền bá khắp thế giới một nền triết học, một con đường của sự khôn ngoan … Tất nhiên, Kitô Giáo bao gồm tất cả điều này, nhưng như là một kết quả của sự suy gẫm. Mẹ Giáo Hội, như Chúa Giêsu, dạy chúng ta bằng gương mẫu, những lời giảng dạy phục vụ để làm sáng tỏ ý nghĩa của những hành động của Giáo Hội.

Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta biết cho của ăn thức uống cho những người đang đói và khát, cho những ai trần truồng đồ mặc. Và Giáo Hội dạy điều đó bằng cách nào? Bằng chính gương mẫu của nhiều vị thánh, các vị đã làm điều này bằng con đường gương mẫu. Nhưng cũng vậy, bằng gương mẫu của mình, nhiều ông bố và bà mẹ dạy con cái của mình rằng nếu cái gì chúng ta chưa dùng tới, chúng ta hãy cho những người đang cần đến nó.

Thật là quan trọng để biết điều này.

Nguyên tắc của lòng hiếu khách luôn luôn là thiêng liêng đối với các gia đình Kitô hữu bình thường nhất: không bao giờ thiếu thức ăn và chỗ ngủ cho những người đang cần.

Một lần kia, một người mẹ trong một Giáo Phận nọ kể với cha rằng chị muốn dạy điều này cho các con của chị, và chị đã nói chúng phải biết giúp và chia sẻ thức ăn với những người đang đói. Chị có ba đứa con. Một ngày nọ đang lúc ăn trưa, người cha phải đi xa vì công việc, và đang dùng bữa với ba đứa con nhỏ: đứa bảy tuổi, năm tuổi và bốn tuổi, lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Có tiếng gõ cửa và có một người đàn ông xin chút gì đó để ăn. Người mẹ nói với ông: “Hãy đợi một chút”. Chị đã trở lại với các con và nói: “Có một người đàn ông đang xin chút gì đó để ăn. Chúng ta nên làm gì?” Những đứa trẻ nói: “Vâng, thưa mẹ, chúng ta hãy cho ông ta chút gỉ đó”. Mỗi người đã có một miếng bít tết với khoai tây chiên trên đĩa của mình. Và người mẹ nói: “Được rồi, chúng ta, mỗi người hãy cho ông ta phân nửa phần của mình và chúng ta sẽ cho ông ta một nửa miếng bít tết của mỗi người trong các con.” Những đứa trẻ nói: “Ồ không được thưa mẹ, đó không phải là cách nên làm.” Và chị ta nói: “Đó là cách nên làm! Các con phải cho chính phần của các con.” Và đúng như vậy, người mẹ đã dạy các con của mình biết cho người khác ăn từ trên đĩa của chúng. Đây là một mẫu gương tốt đã giúp cha rất nhiều. “Nhưng tôi không có bất cứ gì dư thừa.” Nhưng hãy cho những gì bạn có. Đó là cách mẹ Giáo Hội dạy chúng ta. Và rất nhiều người mẹ ở đây, các bạn biết các bạn phải làm gì để dạy con cái của các bạn, để rồi chúng biết chia sẻ mọi thứ cho tất những ai đang cần.

Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta phải biết gần gũi với những người yếu đau. Có bao nhiêu người đàn ông và đàn bà thánh thiện đã từng phục vụ Chúa Giêsu bằng cách này! Có bao nhiêu người đàn ông và đàn bà bình thường, mỗi ngày, thực hành việc làm của lòng thương xót trong một căn phòng của bệnh viện, hay trong một nhà dưỡng lão, hoặc trong chính gia đình của họ, để giúp đỡ người yếu đau.

Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta phải biết gần gũi với những ai bị cầm tù. “Nhưng không, thưa Cha, điều này nguy hiểm. Họ là những người xấu!” Nhưng mỗi người chúng ta có thể cũng như họ. Hãy nghe cho kỹ: Mỗi người chúng ta cũng có thể làm điều tương tự mà những người đàn ông hay đàn bà trong tù đã từng làm! Tất cả chúng ta có khả năng phạm tội và làm điều tương tự, và mắc những sai lỗi trong cuộc sống! Họ không xấu hơn cha và các bạn.

Lòng thương xót vượt qua mọi bức tường, mọi rào cản và đưa các bạn đến việc luôn tìm kiếm khuôn mặt của con người. Và chính lòng thương xót thay đổi tâm hồn và cuộc sống, và có thể làm tái sinh một con người và cho phép họ hội nhập chính mình bằng một cách thức mới vào trong xã hội.

Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta phải biết gần gũi với những ai bị bỏ rơi và những người đang chết một mình. Đó là điều mà Á Thánh Têrêsa đã làm trên những đường phố của Calcuta; và đó là điều mà nhiều Kitô hữu đã và đang làm, không một chút sợ hãi khi phải nắm lấy tay của những người đang sắp sửa giã từ thế giới này. Ngay cả ở đây, lòng thương xót trao ban sự bình an cho những người đã lìa thế và những người còn ở lại, làm cho họ cảm thấy rằng, Thiên Chúa thì cao cả hơn sự chết, và làm cho họ cảm thấy rằng họ đang được ở trong Ngài, ngay cả giây phút cuối cùng là một lời chào “hẹn gặp lại”. Á Thánh Têrêsa đã hiểu thấu điều này. Nhưng một vài người đã nói với mẹ: “Thưa Mẹ, Mẹ đang lãng phí thời giờ của mình.” Mẹ đã tìm thấy những người đang chết, những người đang bị những con chuột gặm nhấm trên những đường phố. Và Mẹ đã đưa họ về nhà để họ đã có thể chết sạch sẽ, thanh thản, được chăm sóc và trong bình an. Mẹ đã cho họ một “lời chào tạm biệt”. Tất cả những người được Mẹ và rất nhiều người giống như Mẹ giúp đỡ, đang chờ để mở cửa Nước Trời cho Mẹ và họ. Hãy giúp cho người khác được chết lành, trong bình an.

Anh chị em thân mến, bằng cách này, Giáo Hội, là một người mẹ, đang dạy con cái mình những việc làm của lòng thương xót. Giáo Hội đã học con đường này từ Chúa Giêsu. Giáo Hội đã học biết rằng điều này cần thiết cho ơn cứu độ. Chỉ yêu những ai yêu chúng ta thì không đủ. Chỉ làm ơn cho những ai làm ơn cho mình thì không đủ. Để biến đổi thế giới này nên tốt hơn, hãy làm ơn cho cả những người không có khả năng đáp trả, như Chúa Cha đã làm cho chúng ta, qua việc trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu.

Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta ân sủng có được Giáo Hội như một nười mẹ, một người mẹ daỵ chúng ta con đường của lòng thương xót, đó là con đường sự sống.

Chuyển ngữ: Hoàng Quốc Việt

GIA ĐÌNH TRONG KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA

Gia đình, từ ban đầu, luôn nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, nên khi gia đình đầu tiên bị tan vỡ do tội, Ngài vẫn yêu thương và phục hồi lại những phẩm giá của gia đình.

Trong những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta đọc thấy việc Thiên Chúa thiết lập gia đình đầu tiên với những lời chúc phúc, sau khi Ngài tạo dựng vũ trụ. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất'” (St 1, 27-28). Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đầu tiên được Thiên Chúa chúc phúc đó đã bị đánh mất vẻ đẹp ban đầu do tội, nên Thiên Chúa chuẩn bị cho một cuộc hôn nhân trọn hảo để phục hồi lại những gì đã bị đánh mất do sự tan vỡ của cuộc hôn nhân đầu tiên: đó là cuộc “hôn nhân” giữa Đức Kitô và Hội Thánh của Ngài, đó là “Trời mới và đất mới” mà chúng ta đọc thấy trong những trang sách cuối cùng của Kinh Thánh, sách Khải Huyền.

Thực vậy, có thể nói, Kinh Thánh là một câu chuyện về gia đình trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Câu chuyện đó được khởi đi từ gia đình đầu tiên là gia đình của Ông Adong và bà Eva, nhưng gia đình ấy đã bị tan vỡ. Rồi qua bao đời, Thiên Chúa lại chọn Abraham và con cháu ông để bắt đầu cho một câu chuyện mới về gia đình. Gia đình đó được chọn làm dân riêng của Ngài, dân Israel. Chính trong dân được chọn đó, Con Thiên Chúa, Đấng đến để phục hồi lại tất cả những phẩm giá bị đánh mất do sự tan vỡ của gia đình đầu tiên, được sinh ra bởi một người nữ, do quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm Người, đã được sinh ra từ cung lòng của một người mẹ và được nuôi dưỡng và lớn lên trong một gia đình với Đức Mẹ và thánh Giuse. Ngài đã sống trong một gia đình và đã thánh hóa gia đình đó thành một gia đình thánh. Hơn nữa, Chúa Giêsu không chỉ thánh hóa gia đình thánh gia, mà qua đó, Ngài thánh hóa mọi gia đình và chúc phúc cho họ. Điều này được thể hiện khi Ngài đến dự tiệc cưới tại Cana và đã làm phép lạ đầu tiên tại đó (x. Ga 2, 1-11), và như đã được các Tiên Tri loan báo, Ngài đã đến và tự gọi mình là Chàng Rể (x. Mc 2, 19-20), và gọi Giáo Hội mà Ngài thiết lập là Nàng Dâu.

Là Nàng Dâu của Ngài, Giáo Hội được Chúa Giêsu trao phó cho sứ mạng hoàn tất kế hoạch mà Thiên Chúa muốn cho các gia đình, qua việc loan báo cho con người mọi thời, của mọi quốc gia rằng: Thiên Chúa là Cha chúng ta, và mời gọi họ hãy sống như một gia đình của Thiên Chúa trong Giáo Hội.

Tại sao gia đình lại luôn nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa? Phải chăng gia đình rất quan trọng đối với con người, xã hội và Giáo Hội?

Quả thế, gia đình rất quan trọng, vì:

– Gia đình là nền tảng cho mỗi cuộc sống của chúng ta.

– Gia đình là nơi chúng ta học được tên của mình, đồng thời nhân cách và các giá trị được hình thành. Đó là nơi chúng ta học cách để cầu nguyện, chia sẻ những suy nghĩ và những cảm xúc của chúng ta. Hơn nữa, từ nơi đó chúng ta học được cách để trao ban và đón nhận tình yêu, tập sống hy sinh và sống với những khác biệt.
– Gia đình là nơi mà những người già cũng như những người trẻ nhận biết chân giá trị, chia sẻ cuộc sống của họ và chăm sóc lẫn nhau, đặc biệt là những lúc yếu đuối và bị tổn thương.
– Gia đình cũng là nền tảng của xã hội, được thiết lập từ khế ước tự nhiên, liên kết mọi người trong xã hội lại với nhau. Không chỉ thế, gia đình cũng còn là nền tảng của Giáo Hội, nơi mà chúng ta khám phá ra căn tính là con Chúa của mình và là anh chị em với nhau.

Gia đình, trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa là thế. Tuy nhiên, như chúng ta biết, ngày nay, các gia đình đang phải đối diện với nhiều thách đố: những xung đột trong gia đình giũa vợ chồng với nhau; cha mẹ với con cái; và anh chị em với nhau. Ngoài ra, những gánh nặng bởi đói nghèo, bạo lực, bệnh tật và những khó khăn khác cũng đang là những mối đe dọa lớn đối với các gia đình, làm cho gia đình bị tan vỡ và bị chệch hướng, không còn đi đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa.

Trước nguy cơ trên, để gìn giữ gia đình khỏi những tan vỡ, luôn là một mái ấm đầy yêu thương, mọi người luôn cảm thấy được yêu thương và nhận ra được những giá trị của mình, và nhất là để gia đình luôn thực sự là nền tảng vững chắc cho xã hội và Giáo Hội, theo như chương trình kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi thành phần trong gia đình cần phải học nơi Chúa Giêsu bài học yêu thương: “Yêu cho đến cùng” bằng một tình yêu “của người sẵn sàng hy sinh vì bạn hữu mình”.

Thực vậy, nền tảng của đời sống gia đình là tình yêu. Và, gia đình nào biết xây dựng đời sống gia đình mình trên nền tảng tình yêu thì ví như xây nhà mình trên nền đá vững chắc, dù có phải gặp phong ba bão tố thì ngôi nhà đó vẫn luôn đứng vững.

Ước mong mọi gia đình luôn ý thức được vai trò của gia đình quan trọng như thế nào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, để qua đó các gia đình luôn sống đúng với căn tính của mình: Mọi người trong gia đình biết yêu thương nhau, chấp nhận nhau với những độc đáo riêng cùng với những thiếu sót, biết giúp nhau trở nên tốt, sống đúng nhân cách của một con người và là con Chúa. Được như vậy, gia đình sẽ thực sự là nơi đào tạo được những con người tốt, và nhờ vậy mà thế giới này luôn có những con người tốt, những con người phản ánh cách trung thực kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã, đang và sẽ thực hiện trong thế giới này.

Hương Quê

GIA ĐÌNH HỌC VỚI CHÚA GIÊSU

Gia đình được định nghĩa là tổ ấm, nơi đó mọi thành phần của gia đình sống yêu thương nhau, hy sinh và tạo dựng hạnh phúc cho nhau. Tuy nhiên, ý nghĩa đó nay không còn trọn vẹn nữa, nếu không nói là không còn! Lý do làm cho ý nghĩa gia đình là nơi tổ ấm không còn trọn vẹn là vì ngày nay, các gia đình đang dần rơi vào nguy cơ tan vỡ rất cao. Mọi thành phần trong gia đình dường như không còn tôn trọng nhau đúng và đủ theo như định chế của hôn nhân đòi hỏi. Vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng và ân cần với nhau theo đúng nghĩa; cha mẹ không còn quan tâm đủ đến việc yêu thương và giáo dục con cái nên người; và con cái không còn kính trọng và vâng lời cha mẹ theo như đạo lý thường tình. Từ những lý do đó, bạo lực gia đình ngày càng gia tăng; hạnh phúc vợ chồng tan vỡ; cha mẹ vô tình và vô tâm với con cái; và con cái trở nên hư hỏng, bất hiếu với cha mẹ.

Thế nhưng, đâu là nguyên nhân làm cho vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng và ân cần với nhau; cha mẹ không còn quan tâm đủ đến việc yêu thương và giáo dục con cái nên người; và con cái không còn kính trọng và vâng lời cha mẹ?

Nguyên nhân chính là vì mọi thành phần trong gia đình không còn có lòng hiền hậu và khiêm nhường trong cung cách sống và đối xử với nhau.

Thật vậy, nếu thiếu lòng hiền hậu, con người sẽ không thể sống yêu thương nhau; và nếu thiếu vắng lòng khiêm nhường thì con người sẽ không thể ân cần phục vụ nhau. Và như vậy thì con người sẽ luôn sống trong thù hận đối với nhau, và tìm mọi cách để thống trị và đàn áp nhau. Và, vì điều đó xảy ra trong gia đình nên gia đình không thể là một tổ ấm yêu thương đối với những người sống trong đó, và dẫn đến nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình là điều đương nhiên.

Vậy, để gia đình thực sự là một tổ ấm yêu thương hầu mọi người sống trong đó luôn tìm được niềm vui hạnh phúc thì mọi thành phần trong gia đình phải làm gì? Thưa, mọi người cần phải học với Chúa Giêsu bài học về tấm lòng hiền hậu và khiêm nhường.

Quả thế, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mời gọi mọi người: “Hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Đây là bài học duy nhất mà Chúa Giêsu mời gọi con người học với Ngài trong suốt ba năm Ngài rao giảng. Ngài không mời gọi họ với Chúa cách chữa bệnh, làm phép lạ, hay tài hùng biện. Ngài chỉ mời gọi họ học với Ngài sự hiền hậu và khiêm nhường. Tại sao vậy? Tại vì, chỉ với tấm lòng hiền hậu thì ta mới có thể yêu như Chúa yêu; và chỉ với lòng khiêm nhường thì ta mới có thể ân cần phục vụ nhau như Ngài phục vụ. Sống yêu thương và phục vụ nhau chính là điều mà tất những ai bước theo Ngài phải sống.

Sống trong gia đình Công Giáo, mọi người đều là môn đệ của Chúa Giêsu, nên được mời gọi sống yêu thương và ân cần phục vụ nhau để tạo dựng hạnh phúc cho gia đình và cho nhau. Hiểu như vậy và để sống được như thế, các gia đình Công Giáo cần phải học nơi Chúa Giêsu bài học về tấm lòng hiền hậu và khiêm nhường.

Gia đình học với Chúa Giêsu bài học hiền hậu

Mỗi gia đình và mọi thành phần trong đó luôn được mời gọi nên thánh trong bổn phận của mình đối với nhau. Sống thánh để thánh hóa chính mình và thánh hóa người khác. Đây là ơn gọi và là trách nhiệm mà vợ chồng, cha mẹ, con cái, và anh chị em phải có đối với nhau. Sống thánh là ta sống một cuộc sống không tỳ ố, không vết nhơ do tội. Đó là một đời sống không hận thù ghen ghét, nhưng mọi người luôn biết yêu thương, tha thứ và hy sinh trong cung cách sống của mình đối với nhau. Để có được cung cách sống như vậy, mọi người trong gia đình cần phải học với Chúa Giêsu bài học về lòng hiền hậu.

Với lòng hiền hậu, Chúa Giêsu đã không hận thù, ghen ghét với những kẻ chống đối và làm hại Ngài, mà Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho họ. Với lòng hiền hậu, Chúa Giêsu đã không kết án người có tội, nhưng yêu thương họ và giúp họ được giải thoát khỏi sự trói buộc của tội. Ngài đã sống thánh trong thân phận con người để thánh hóa những ai bước theo Ngài và giúp họ nên thánh. Ngài không có tội và luôn nói “không” với tội, nhưng Ngài không kết án người có tội, vì Ngài có lòng hiền hậu. Đây là bài học quý giá cho mọi thành phần trong các gia đình để xây dựng gia đình mình nên thánh thiện. Mỗi người trong gia đình cần phải biết nói “không” với tội, nhưng cũng cần phải có lòng hiền hậu như Chúa Giêsu để biết yêu thương và tha thứ cho những người phạm lỗi, không kết án họ, hầu giúp những họ sửa đổi những sai lỗi, để rồi họ cũng có được một đời sống thánh thiện, và khi đó gia đình mới nên thánh được.

Yêu thương và tha thứ cho người phạm lỗi là ta cho họ cơ hội nên thánh. Chúa Giêsu đã không kết tội người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và đã cho chị cơ hội nên thánh (x. Ga 8, 2-11). Ngài đã tha thứ cho một người phụ nữ phạm tội, và người đó đã trở thành người yêu mến Chúa cách nồng nàn (x. Lc 7, 36-50). Trong gia đình, với tấm lòng hiền hậu, vợ chồng yêu thương nhau và tha thứ cho nhau những lỗi lầm, để giúp nhau trở nên tốt; cha mẹ yêu thương con cái, tha thứ cho chúng những lỗi lầm để giúp chúng trở nên những người con ngoan hiền và đạo hạnh, sống đúng với nhân phẩm của một con người và là người con Chúa; và anh chị em yêu thương tha thứ cho nhau những sai lỗi để giúp nhau sống đúng và sống tốt bổn phận làm con cái trong gia đình và là anh chị em tốt đối với nhau.

Gia đình học với Chúa Giêsu bài học khiêm nhường

Với lòng hiền hậu, ta sẽ biết sống yêu thương và tha thứ. Tuy nhiên, bài học mà Chúa Giêsu muốn ta học nơi Ngài không chỉ dừng lại ở tấm lòng hiền hậu để chỉ có yêu thương và tha thứ, Ngài muốn chúng ta vươn xa hơn nữa đến sự ân cần phục vụ nhau. Quả thế, hành động yêu thương và tha thứ chỉ có ý nghĩa đích thực và trọn vẹn khi hành động đó vươn tới hành động phục vụ. Nếu hành động yêu thương và tha thứ là cho người khác cơ hội nên thánh, thì việc ân cần phục vụ họ là việc làm cụ thể giúp họ sống thánh. Thế nhưng, để có thể ân cần phục vụ người khác, điều quan trọng và cần thiết là ta phải có lòng khiêm nhường. Tại sao vậy?

Khi nói đến phục vụ, ta hiểu ngay đó là việc làm của người đầy tớ phải làm đối với chủ. Chỉ có đầy tớ mới phải phục vụ chủ của mình, không có chuyện chủ phục vụ đầy tớ. Nếu giả như có người chủ nào đó ân cần phục vụ đầy tớ mình, thì người chủ đó phải là người rất khiêm nhường. Vì, chỉ với lòng khiêm nhương, người chủ mới có thể hạ mình xuống để ân cần phục vụ đầy tớ của mình. Người chủ mà ta giả định đó chính là Chúa Giêsu, Ngài chính là Thiên Chúa, đã hạ mình, xuống thế làm người, sống thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi, để phục vụ con người cách ân cần. Đây là điều mà thánh Phaolô, trong thư gởi tín hữu Philipphê, đã khẳng định với chúng ta: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Pl 2, 6-8). Và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45), và Ngài khuyên các môn đệ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10, 43-44)

Với lòng khiêm nhường, Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ con người cách ân cần hầu nâng con người lên để con người có thể sống đúng với ơn gọi làm người và làm con Chúa. Nghĩa là, nhờ sự ân cần phục vụ của Ngài, con người được đưa trở lại với tình trạng thánh thiện ban đầu mà con người đã đánh mất do tội. Đây chính là bài học cho các gia đình.

Thực vậy, trong gia đình, mọi người chỉ có thể chu toàn trách nhiệm đối với nhau và ân cần phục vụ cho hạnh phúc của nhau khi mỗi người có lòng khiêm nhường, hạ mình xuống. Ai cũng mang nơi mình cái tôi rất lớn, không ai muốn chịu thua ai. Chồng có cái tôi của chồng và vợ cũng vậy. Nếu ai cũng cứ cố chấp trong sự cao ngạo của mình thì làm sao có thể hy sinh chính mình để phục vụ người khác được. Trách nhiệm của vợ chồng là hy sinh cho nhau và phục vụ cho hạnh phúc của nhau. Vậy nếu vợ chồng, mỗi người không có được một tấm lòng khiêm nhường thì không thể hạ mình xuống và hy sinh đi cái tôi của mình để phục vụ nhau. Hơn nữa, nếu thiếu lòng khiêm nhường, vợ chồng sẽ không thể nhận ra những thiếu sót và sai lỗi của mình trong trách nhiệm đối với nhau. Chỉ với lòng khiêm nhường, vợ chồng sẽ biết tôn trọng nhau, mới nhận ra những thiếu sót của mình trong bổn phận đối với nhau, và như vậy mới có thể sửa đổi và ngày càng thăng tiến hơn trong việc chu toàn trách nhiệm đối với nhau. Vậy còn trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái thì thế nào?

Bổn phận và trách nhiệm của cha mẹ là phải phục vụ cho sự trưởng thành và hạnh phúc của con cái. Vậy, cha mẹ cần phải học nơi Chúa Giêsu bài học về lòng khiêm nhường thì mới có thể ân cần phục vụ con cái cách đúng đắn. Với lòng khiêm nhường, cha mẹ mới có thể chịu đựng được những đứa con ngỗ nghịch và kiên trì trong việc giáo dục chúng nên người tốt. Phần con cái cần phải học với Chúa Giêsu bài học khiêm nhường để biết vâng lời cha mẹ, sống theo những chỉ dẫn của các ngài hầu trở nên những người con tốt. Và với lòng khiêm nhường, con cái sẽ luôn biết phục tùng cha mẹ, hiếu thảo với các ngài và chu toàn cách tốt nhất bổn phận của những người con đối với cha mẹ mình.

Tóm lại, tấm lòng hiền hậu và khiêm nhường là điều mà mỗi người trong các gia đình cần phải có đối với nhau hầu có thể xây dựng gia đình mình trở thành một tổ ấm của sự yêu thương và hạnh phúc. Thế nhưng, tấm lòng hiền hậu và khiêm nhường đó phải là tấm lòng mà mỗi người phải học với Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa Giêsu mới có lòng hiền hậu và khiêm nhường đích thực và Ngài mời gọi tất cả chúng ta học với Ngài. Đó là tấm lòng của Con Thiên Chúa làm người dành cho nhân loại, hầu đem lại cho nhân loại niềm vui hạnh phúc của ơn cứu độ. Đến lượt mình, con người, đặc biệt là mỗi người trong các gia đình Công Giáo, được mời gọi học với Ngài để cũng có được lòng hiền hậu và khiêm nhường trong cung cách sống đối với nhau, hầu mang lại cho gia đình mình và gia đình nhân loại niềm vui và hạnh phúc, và đó cũng là cách các gia đình sống Phúc Âm Hóa và mang Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa đến cho con người.

Hương Quê

VỢ CHỒNG SỐNG TÌNH THÂN MẬT VỚI THIÊN CHÚA VÀ VỚI NHAU

Chàng và nàng yêu nhau say đắm. Sau khi tốt nghiệp đại học, họ đã quyết kết hôn với nhau. Thời gian đầu, đời sống hôn nhân của hai người rất tuyệt vời.
Thấp thoáng, vậy mà đã mười hai năm trôi qua, hai người vẫn còn yêu nhau, nhưng cuộc sống không còn tuyệt vời như những năm đầu khi mới cưới nhau. Gia đình của hai người bây giờ không còn phải là hai, nhưng là hai cộng thêm bốn đứa con. Và như vậy cuộc sống của hai vợ chồng trở nên bận rộn và vất vả hơn. Bận rộn với công ăn việc làm; bận rộn với con cái … Và chính sự bận rộn đó đã làm cho đời sống hôn nhân của hai người trở nên tẻ nhạt và nhàm chán.

Chẳng lẽ vợ chồng cưới nhau chỉ để sống một cuộc sống tẻ nhạt và nhàm chán như vậy? Thế là hai người quyết định đi tìm giải pháp để đưa đời sống hôn nhân của họ trở lại những khoảnh khắc tuyệt vời như ngày mới cưới nhau. Họ bàn thào với nhau, cầu nguyện, tra cứu Kinh Thánh, và cuối cùng, dựa vào hai đoạn Kinh Thánh, họ tìm ra được phương thế làm cho đời sống hôn nhân của họ luôn tuyệt vời. Phương thế đó là: Vợ Chồng Sống Tình Thân Mật với Thiên Chúa và với Nhau.

Đoạn Kinh Thánh thứ nhất được trích trong thư thứ nhất của thánh Gioan Tông Đồ chương 4, câu 7-8. “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” Vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu, và tình yêu đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa mới ban cho chúng ta một tình yêu thân mật, say đắm và bền vững.

Tuy nhiên, hai người tự nhủ: Làm sao vợ chồng có thể yêu nhau bằng tình yêu của Thiên Chúa, nghĩa là yêu như Thiên Chúa yêu!? Một đoạn Kinh Thánh khác, được trích từ sách Sáng Thế, chương 2 câu 24, cho họ câu trả lời: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” “Một xương một thịt” là việc người nam và người nữ kết hợp cách trọn vẹn với nhau. Sự kết hợp hoàn hảo giữa vợ chồng phải hôi đủ ba yếu tố: thể xác, cảm xúc và tinh thần.

Như vậy, nếu vợ chồng muốn yêu nhau bằng tình yêu của Thiên Chúa, hai người phải sống kết hợp với Ngài, và sống tình thân mật với nhau. Và ta gọi đó là “sự kết nối tinh thần”, mà qua đó vợ chồng đặt Thiên Chúa là trung tâm của mối liên hệ của hai người và sống kết hợp với Ngài như là vợ chồng sống kết hợp với nhau.

Để nuôi dưỡng đời thân mật với Thiên Chúa và với nhau, vợ chồng cần có những thực hành cụ thể:

– Chia sẻ với nhau đời sống tinh thần

Ít nhất tuần một lần, vợ chồng chia sẻ với nhau những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong đời sống của hai người. Chia sẻ với nhau những cảm nghiệm thiêng liêng mà mỗi người có được trong một tuần, từ cuộc sống hàng ngày, nhất là những cảm nghiệm trong việc sống kết hợp với Chúa, và đã dược Chúa hướng dẫn, nâng đỡ hầu đã có thể vượt qua những khó khăn.

Vợ chồng cần phải trung thực khi chia sẻ với nhau những cảm nghiệm thiêng liêng đó. Ví dụ, vợ chia sẻ với chồng kinh nghiệm phải làm thế nào để có thể kiên trì chịu đựng những tật xấu của chồng; hay chồng chia sẻ với vợ kinh nghiệm làm sao có thể chấp nhận được tính nhỏ nhặt, ghen tuông vu vơ ….

Chia sẻ với nhau những cảm nghiệm về đời sống thiêng liêng giúp vợ chồng ngày càng gắn bó hơn với Đức Kitô, và qua đó vợ chồng sẽ hiểu nhau hơn, và sống gắn bó với nhau hơn.

– Cùng nhau cầu nguyện

Cùng nhau cầu nguyện mỗi ngày, đó là cách vợ chồng cùng giúp nhau ngày càng sống gắn kết với Chúa, và nhất là vợ chồng giúp nhau bày tỏ những khó khăn đang gặp phải với Chúa và với nhau. Khi cầu nguyện chung với nhau, vợ chồng cùng nhau dâng lên Chúa những khó khăn trong cuộc sống, những khó khăn trong đời sống hôn nhân, trong công ăn việc làm, trong việc giáo dục con cái … nghĩa là vợ chồng cùng nhìn về một hướng, cùng nhau lo toan cho gia đình, và củng cố niềm tin cho nhau vào Thiên Chúa. Cùng nhau cầu nguyện là phương thế tuyệt vời nhất giúp vợ chồng củng cố niềm tin vào Thiên Chúa và nối kết ngày càng thắm thiết với nhau.

– Cậy trông vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh

Đời sống gia đình có lúc vui lúc buồn; có lúc thành công và cũng có lúc thất bại; có lúc hạnh phúc nhưng cũng có lúc đau khổ. Tuy nhiên, vấn đề không phải là vậy, mà là làm sao luôn gìn giữ được sự bình an trong gia đình. Với lòng cậy trông vào Chúa, lúc vui vợ chồng sẽ biết tạ ơn Chúa; lúc buồn sẽ biết tín thác vào Ngài.

Đôi khi trong đời sống, vợ chồng phải trải qua những đau khổ, hãy cậy trông vào Chúa, và hỏi xem Chúa muốn mình điều gì? Tất cả mọi đau khổ, khó khăn xảy đến, Chúa đều muốn dùng tất cả để kéo hai người đến gần Ngài hơn. Và như thế, khi phải đương đầu với những khó khăn, không phải chỉ là hai vợ chồng, mà là ba người: Thiên Chúa, chồng và vợ.
Với Thiên Chúa là trung tâm của đời sống hôn nhân, dù vợ chồng có phải đương đầu với những đau thương thì cũng sẽ vượt qua dễ dàng. Qua những đau thương trong cuộc sống hôn nhân, Thiên Chúa muốn vợ chồng tôi luyện một mối dây liên kết thân mật với Ngài và với nhau.

Tóm lại, sống tình thân mật với Thiên Chúa và với nhau là điều mà vợ chồng phải sống mỗi ngày hầu có thể với Chúa và cùng nhau vượt qua những khó khăn trong đời sống hôn nhân. Sống được như vậy, vợ chồng sẽ chu toàn được những trách nhiệm của hôn nhân, sẽ tạo dựng hạnh phúc cho nhau, nuôi dạy con cái nên người, và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Hương Quê

GIA ĐÌNH SỐNG ĐỨC VÂNG PHỤC

Nơi vườn địa đàng năm xưa, dại diện cho gia đình nhân loại là ông Adong và bà Eva đã không vâng phục Thiên Chúa, vì không vâng phục Thiên Chúa, họ và đàn con cháu phải gánh lấy những hệ quả khôn lường, đáng sợ nhất là mất đi sự thanh khiết, hạnh phúc và quý nhất là sự sống đời đời.

Thực trạng xã hội ngày nay cũng đang diễn lại sự bất phục tùng Thiên Chúa của Adong và Eva nơi vườn địa đàng ngày xưa.

Quả thế, ngày nay con người, nhất là các gia đình đã và đang bị quyền lực sự dữ xui khiến sống xa rời Thiên Chúa, xa rời các giá trị nhân bản và các giá trị Tin Mừng, để sống theo nền văn hóa sự chết. Cụ thể là các gia đình không còn muốn sống theo tinh thần Phúc Âm và những giáo huấn của Giáo Hội, nhất là những giáo huấn về những vấn đề liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình. Nghĩa là, cũng như Adong và Eva, các gia đình không còn muốn phục tùng Thiên Chúa nữa. Họ muốn bằng Thiên Chúa và muốn mình trở thành “chúa” của mình.

Hệ quả của sự bất tuân phục những giáo huấn của Thiên Chúa, của Giáo Hội là những tan vỡ trong gia đình, những suy đồi về đạo đức, là những điều vô luân. Những giá trị gia đình không còn nữa: vợ chồng không còn giữ được sự chung thủy với nhau, dẫn đến tình trạng “ông ăn chả, bà ăn nem”; cha mẹ không còn quan tâm đến việc giáo dục con cái, dẫn đến việc ngày càng có nhiều những đứa con hư hỏng; cha mẹ giết chết con mình khi nó còn chưa được sinh ra; con cái không còn hiếu thảo với ông bà cha mẹ, dẫn đến việc xã hội ngày càng phải chứng kiến nhiều cảnh cha mẹ phải chịu đựng những đau khổ do chính những đứa con mà mình đã mang nặng đẻ đau và cưu mang gây ra.

Thế vậy, để giải quyết và tránh những hậu quả nêu trên, gia đình cần phải học để biết sống Đức Vâng Phục.

Thực vậy, gia đình chính là “trường dạy Đức Tin”, là nơi đầu tiên hạt giống Đức Tin được gieo trồng và phát triển. Chính vì thế, mọi thành phần trong gia đình phải cùng nhau hợp thành một cộng đoàn sống Đức Tin, nói cách khác, một cộng đoàn sống thánh ý Chúa cách sống động. Cách cụ thể, cha mẹ phải là những người làm gương cho con cái trong việc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa, qua việc sống theo những điều Chúa dạy trong Kinh Thánh, qua những giáo huấn của Giáo Hội; đồng thời, con cái cần phải học biết để vâng phục thánh ý Thiên Chúa qua việc vâng lời cha mẹ.
Làm thế nào để gia đình nhận ra thánh ý Chúa?

Trong việc tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa, mọi thành viên trong gia đình phải giúp đỡ nhau qua lời cầu nguyện, khuyên nhủ và đối thoại huynh đệ. Qua mỗi người trong gia đình, Thiên Chúa bày tỏ những mong muốn của Ngài, và việc thực hiện những mong muốn này là “công việc của mọi người” trong gia đình.

Thế nhưng, để có thể nhận ra thánh ý của Thiên Chúa, tất cả mọi người trong gia đình phải cần đến ánh sáng của Thánh Thần, Đấng đã được ban cho các thánh Tông Đồ, và cho mỗi người chúng ta khi lãnh Bí tích Rửa tội, và nhất là khi lãnh Bí Tích Thêm sức. Nếu mỗi người trong gia đình biết chia sẻ ánh sáng này cho người khác, đặc biệt là cha mẹ biết chia sẻ ánh sáng đó cho con cái, nghĩa là hướng dẫn con cái theo sự thúc đẩy của Thánh Thần, thì mọi người trong gia đình sẽ có thể càng thăng tiến thêm trong sự hiểu biết. Chẳng ai thánh thiện và sáng suốt đến độ không cần đến sự hướng dẫn của người khác. Chẳng có ai quá nghèo nàn hay tội lỗi đến độ không thể cho đi điểm sáng của mình. Trong gia đình, mọi người cần phải cùng nhau làm cho niềm tin của mình vào Thiên Chúa nên sống động bằng việc tín thác cuộc sống gia đình vào ý định nhân hậu của Thiên Chúa. Cùng nhau tìm ý Chúa là vấn đề sống còn đối với gia đình. Nó sẽ làm cho mỗi người trong gia đình thăng tiến trong đức tin, trong nhân cách sống, qua việc sửa lỗi huynh đệ và giáo hoá lẫn nhau, và nhất là sẽ luôn bảo tồn được các giá trị gia đình.

Đâu là mẫu gương để gia đình noi theo trong việc sống Đức Vâng Phục?

Gia đình Thánh Gia chính là mẫu gương cho mọi gia đình trong việc sống Đức Vâng Phục.

Nhìn vào gia đình Thánh Gia, ta nhận ra gia đình ấy được xây dựng trên nền tảng của Đức vâng Phục, khởi đi từ sự vâng phục của Con Thiên Chúa (x. Pl 2, 6-8; Lc 2, 51) cho đến lời Xin Vâng của Đức Maria (x. Lc 1, 38), và sự phục tùng thánh ý Chúa của thánh Giuse (x. Mt 1, 18-25). Các Ngài đã sống thánh qua việc sống vâng phục thánh ý của Thiên Chúa, đó là ý định cứu độ nhân loại khỏi ách thống trị của tội, do sự bất phục tùng của Adong và Eva gây ra.

Bằng chính sự vâng phục, các Ngài cộng tác với Thiên Chúa để cứu nhân loại khỏi những đau khổ do tội để được sống hạnh phúc, thì các gia đình cũng cần phải noi gương gia đình Thánh Gia, cộng tác với Thiên Chúa trong ý định hoàn thiện nhân loại này qua việc sống thuận theo những giới răn của Ngài và những giáo huấn của Giáo Hội. Với phương cách đó, mọi người trong gia đình sẽ tạo dựng hạnh phúc cho nhau, và hạnh phúc đó sẽ lan tỏa đến những gia đình khác. Đây chính là sứ mạng của mỗi người trong việc sống “Phúc Âm Hóa Đời Sống Gia Đình”.

Hương Quê

SỐNG ĐỨC KHIẾT TỊNH TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN

Có lẽ là điều ngớ ngẩn và không cần thiết khi đề cập đến việc sống Đức Khiết Tịnh trong đời sống hôn nhân, vì như thế chẳng khác nào “cấm một người đang đói không được ăn”! Tuy nhiên, sẽ là một thiếu sót lớn đối với những ai có trách nhiệm nếu không muốn, và nhất là không dám nói đến vấn đề đó cho các cặp vợ chồng!

Trong bối cảnh Giáo hội sống năm “Phúc Âm Hóa Đời Sống Gia Đình”, thiết nghĩ, đây là dịp thuận tiện để đề cập đến việc sống Đức Khiết Tịnh trong đời sống hôn nhân. Nếu vợ chồng sống hay giữ được Đức Khiết Tịnh trong đời sống hôn nhân của họ, chắc chắn họ sẽ tạo được hạnh phúc cho nhau và cho gia đình họ; bởi lẽ đa phần sự tan vỡ trong hôn nhân đều phát xuất từ việc vợ chồng không sống và giữ trọn vẹn Đức Khiết Tịnh trong quan hệ vợ chồng của họ.

Vậy, sống Đức Khiết Tịnh trong hôn nhân nghĩa là gì?

Nói đến việc sống Đức Khiết Tịnh trong đời sống hôn nhân tưởng như mới lạ, nhưng thực ra đó chính là việc vợ chồng sống đúng những mục đích và những đặc tính của hôn nhân Kitô giáo đề ra.

1. Những mục đích của hôn nhân Kitô Giáo

Trong sách Sáng Thế Ký có hai đoạn văn nói về việc Thiên Chúa tạo dựng loài người, và qua đó nói rõ mục đích khi Ngài tạo dựng họ có nam có nữ.

– Đoạn Kinh Thánh thứ nhất: “Thiên Chúa phán: ‘Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.’ Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, … Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. …, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.’ …” (St 1, 26-30)
Qua đoạn Kinh Thánh thứ nhất này, ta thấy rõ được một trong những mục đích của hôn nhân là sinh sản con cái, và lẽ dĩ nhiên sinh sản con cái luôn kèm theo việc nuôi dưỡng và giáo dục chúng nên những con người tốt.

– Đoạn Kinh Thánh thứ hai: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: ‘Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó’.… ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: ‘Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.’ Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2, 18-24)

Đoạn Kinh Thánh thứ hai này cho chúng ta thấy mục đích khác nữa của hôn nhân Kitô giáo là vợ chồng yêu thương nhau.

Như vậy, mục đích chính của hôn nhân Kitô giáo là: vợ chồng yêu thương nhau (x. St 2, 24) và sinh sản đầy mặt đất (x. St 1, 28).

a. Vợ chồng yêu thương nhau

Hai người nam nữ đến với nhau là do tình yêu thúc đẩy và sống với nhau là để giúp nhau phát triển tình yêu ấy. Câu Kinh Thánh “Adam không tìm được sự trợ giúp tương hợp” diễn tả “cái thiếu, cái cần” của Adam. Dù Adam có tất cả vạn vật chung quanh, ông vẫn cảm thấy thiếu, thấy trống vắng. Phải có “cái gì” để lấp đầy sự trống vắng đó. “Cái để lấp đầy”, chính Thiên Chúa đã ban cho Adam, đó là Eva. Khi Eva được đưa tới, Adam thốt lên sung sướng: “Này xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi… từ nay, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ và cả hai sẽ nên một xương một thịt” (St 2, 23). Lời nói ấy biểu lộ sự hài lòng của Adam vì ông đã tìm được sự “trợ giúp tương hợp”, đã cảm thấy đầy đủ và muốn gắn bó và yêu thương Eva suốt đời.

Như thế hai người nam nữ đến với nhau là để lấp đầy cho nhau, để bù đắp cái “thiếu” của nhau, để tương trợ nhau trong tình yêu.

b. Sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái

Tương trợ nhau trong tình yêu và trong cuộc sống còn là để phục vụ sự sống mới. Như tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh không ngừng phát sinh hoa trái là các Kitô hữu qua Bí tích Rửa tội và ân sủng các Bí tích khác, thì vợ chồng yêu thương kết hợp với nhau trong đời sống Hôn nhân cũng sẽ nhằm tới việc truyền sinh, nghĩa là sinh con cái, và giáo dục chúng nên người tốt và nên con Chúa. Đây là ơn gọi rất cao quí của cha mẹ Công giáo. Chính vì lý do đó, Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Mục Vụ, dạy:

“Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quí nhất của Hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đã phán: ‘Đàn ông ở một mình không tốt’ (St 2, 18). Người là Đấng: ‘… từ buổi đầu, đã dựng nên một người nam và một người nữ’ (Mt 19, 4); chính Thiên Chúa muốn thông ban cho con người cộng tác một phần đặc biệt vào công cuộc tạo dựng của Người. Người đã chúc lành cho người nam và người nữ rồi nói: ‘Các ngươi hãy tăng gia, sinh sản’ (St 1, 28).” (MV 50)
Về vấn đề sinh sản con cái, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã giải thích: “Ngày nay loài người đã đầy mặt đất, cần phải tính đến việc nuôi sống và giáo dục những mầm non của loài người. Đàng khác, mệnh lệnh sinh sản cho đầy mặt đất gắn liền với mệnh lệnh làm chủ mặt đất. Muốn thế thì đứa con sinh ra phải được nuôi nấng và giáo dục cho nên người. Điều này đưa chúng ta vào những vấn đề cấp bách và nghiêm trọng hiện nay là vấn đề sinh sản có trách nhiệm và vấn đề giáo dục con cái” (Thư Mục vụ HĐGMVN tháng 10/1992 – số 11).

2. Những đặc tính của hôn nhân Kitô Giáo

a. Đơn hôn

Đơn hôn là hôn nhân giữa chỉ một người nam và một người nữ. Hôn nhân Công giáo là duy nhất, trung tín, không chia sẻ. Người nam không thể là chồng của người nữ nào ngoài vợ mình; và người nữ cũng không thể là vợ của người nam nào ngoài chồng mình. Dùng kiểu nói xưa, thì gọi là “Nhất phu nhất phụ”. Đặc tính Đơn hôn loại trừ mọi hình thức đa thê, đa phu và hôn nhân của những người đồng tính luyến ái.

b. Bất khả phân ly

Bất khả phân ly tức là vĩnh viễn, nghĩa là hôn nhân ràng buộc hai người cho đến chết. Khi người nam và người nữ đã kết hôn thành sự và hợp pháp, họ phải chung thủy với nhau trọn đời (x. MV số 20). Không ai có thể tháo dây hôn phối đó, dù hai vợ chồng đồng tình, dù quyền lực tôn giáo hay dân sự.
Trên đây là trình bày cách khái quát về những mục đích và những đặc tính của hôn nhân Kitô giáo. Vậy tại sao khi sống các mục đích và đặc tính của hôn nhân lại là sống Đức Khiết Tịnh?
3. Sống các mục đích và đặc tính của hôn nhân là sống Đức Khiết Tịnh
Khi nói đến Đức Khiết Tịnh, ta liên tưởng ngay đến vấn đề tính dục, mà chúng ta thấy trong hai mục đích và hai đặc tính của hôn nhân đều liên quan đến vấn đề tính dục. Vợ chồng yêu thương nhau thì trong tình yêu có tình dục; rồi việc vợ chồng yêu thương nhau không chỉ là để thỏa mãn bản thân mình mà còn nhắm đến vấn đề truyền sinh. Đây là sứ vụ và là trách nhiệm của vợ chồng. Hơn nữa, khi nói đến tính chất đơn hôn và bất khả phân ly trong hôn nhân thì cũng có nghĩa là nói đến sự tiết chế trong quan hệ vợ chồng. Người ta muốn đa thê đa thiếp là vì muốn thỏa mãn bản năng tính duc của mình; muốn lăng nhăng ngoại tình, không muốn chung thủy với người phối ngẫu suốt đời cũng chỉ vì muốn đi tìm những cảm giác mới nhằm thỏa mãn ham muốn tính dục qua những cuộc mây mưa ngoài hôn nhân.

Tình yêu và tình dục là hai yếu tố luôn có và cần thiết để hai vợ chồng có thể chung thủy, một lòng một dạ yêu nhau suốt đời, và sinh sản con cái; tuy nhiên, trong hai yếu tố đó thì tình yêu là quan trọng hơn. Nếu vợ chồng coi tình dục là yếu tố quan trọng hơn tình yêu, thì đời sống hôn nhân của họ sẽ mau chóng bị sụp đổ, vì họ không thể nào thỏa mãn và làm cho người phối ngẫu thỏa mãn bản năng tính dục. Thực vậy, sự thỏa mãn tính dục không phải là thỏa mãn tình yêu, và không thể bù đắp cho tình yêu. Nhưng nếu vợ chồng thực sự yêu nhau thì chính tình yêu đó sẽ bù đắp cái gọi là “thiếu” cho nhau, và làm cho nhau được hạnh phúc, và khi đó tính dục có hay không không còn là điều quan trọng. Ngoài ra, việc quan hệ tình dục giữa hai vợ chồng còn phải nhắm đến vấn đề truyền sinh, nghĩa là sinh sản con cái có trách nhiện, nên vợ chồng càng phải quan tâm hơn nữa đến việc tiết dục trong hôn nhân. Đây là điều khó thực hiện đối với các vợ chồng. Khó nhưng vẫn có thể giữ được một khi vợ chồng yêu nhau bằng một tình yêu trọn hảo, tình yêu “Agape”: tình yêu của Thiên Chúa yêu con người.

Quả vậy, tình yêu mà hai người nam nữ dành cho nhau thường chỉ dừng lại ở thứ tình yêu Eros (ái tình). Đây là thứ tình yêu chiếm hữu, thuộc về cảm xúc, không được điều khiển bằng lý trí và ý chí. Cho nên khi yêu ai, ta muốn chiếm hữu người đó cho riêng mình, theo cảm xúc của mình; và nhất là chỉ nhắm tìm thỏa mãn ham muốn tính dục khi yêu nhau. Vậy, để có thể sống được Đức Khiết Tịnh trong đời sống hôn nhân, nghĩa là sống trọn vẹn các mục đích và đặc tính của hôn nhân, vợ chồng cần phải vượt lên tình yêu Eros để vươn tới một sự trọn hảo của tình yêu: tình yêu Agape.
Khi vươn tới sự trọn hảo của tình yêu (tình yêu Agape), vợ chồng không chỉ có nhu cầu yêu và được yêu, mà còn có nhu cầu chia sẻ tình yêu với người mình yêu. Tình yêu Agape là thứ tình yêu luôn tìm đáp ứng nhu cầu hạnh phúc của người khác hơn là đáp ứng nhu cầu của chính mình; là sống cho nhu cầu hạnh phúc của người mình yêu chứ không chiếm hữu người yêu cho riêng mình. Khi sống tình yêu Agape, vợ chồng luôn biết đồng cảm cảm với nhau: hạnh phúc của người mình yêu là của mình; và nỗi đau của người mình yêu cũng là của mình. Vợ chồng yêu nhau bằng tình yêu Agape thì sẽ không tìm thỏa mãn bản năng tính dục, mà luôn biết sống cho và vì hạnh phúc của nhau, hướng đến xây dựng gia đình hạnh phúc, sinh sản có trách nhiệm hầu nuôi dạy con cái thành người tốt, để rồi qua đó, làm chứng cho con người ngày nay về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.

Nhìn lên thập giá Đức Kitô, chúng ta thấy được tình yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa dành cho con người, một tình yêu không chỉ là Eros nhưng còn là Agape (ĐGH Bênêđictô XVI). Thiên Chúa yêu con người như một người nam yêu một người nữ, nhưng không chỉ muốn chiếm hữu con người, mà là trao ban chính mình cho con người, vì hạnh phúc của con người. Tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội thực sự là mẫu gương cho các vợ chồng noi theo để sống Đức Khiết Tịnh trong đời sống vợ chồng.

“Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời.” (Mt 19, 12) Như vậy thì cũng có thể nói, có những người đã kết hôn, nhưng vì Nước Trời, họ sẵn sàng sống Đức Khiết Tịnh trong đời sống hôn nhân, qua việc sống đúng, sống trọn vẹn các mục đích và các đặc tính của hôn nhân Kitô giáo, để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa yêu thương con người, và làm chứng cho Nước Trời mai sau.

Hương Quê