Công việc quan trong nhất của thế giới là gì? Một cuộc khảo sát mang tính quốc tế về phạm vi rộng lớn của con người từ khắp thế giới đã tìm ra một câu trả lời đáng ngạc nhiên: Việc nôi dưỡng một đứa trẻ! Số đông những người được hỏi đã nói rằng, không có gì quan trọng đối với tương lai của nhân loại hơn là việc giáo dục trẻ thành niên có khả năng dấn thân để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn.
Như các bạn đã có thể đoán, bản khảo sát này đã không bao giờ xuất hiện! Nhưng ai đó vẫn có thể hy vọng một ngày nào đó, xã hội sẽ nhận biết được sự đóng góp cơ bản của thành phần quan trọng nhất của nó – Gia Đình – và chọn lựa để trợ giúp các bậc cha mẹ, những người muốn dành nhiều thời giờ và năng lực hơn cho việc nuôi dưỡng con cái của họ.
Trong kế hoạch tổng thể của tình yêu Thiên Chúa, ngay từ lúc khởi đầu của thời gian, gia đình đã nhận được ơn gọi quan trọng của mình: đó là việc thăng tiến sự sống …”Thiên Chúa sáng tạo dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất'” (St 1, 27-28). Mỗi đứa trẻ được sinh ra đều nằm trong ý định của Thiên Chúa và được Ngài yêu thương. Mỗi một đứa con được sinh ra là một cá thể riêng biệt, duy nhất và không thể thay thế – thực sự là một quà tặng của Thiên Chúa cho một gia đình và cho xã hội.
“Gia đình là nơi mà người ta học để yêu; nó là tâm điểm thuộc bản chất của đời sống con người. Nó được hình thành bởi những khuôn mặt, bởi những người yêu nhau, nói chuyện với nhau, hy sinh cho những người khác và bảo vệ sự sống, cách đặc biệt, nó được hình thành bởi những con người mỏng dòn và yếu đuối nhất” (ĐGH Phanxicô, Cuộc Họp Toàn Thể lần thứ 21 của Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình tại Rôma ngày 25 tháng 10 năm 2013). Gia đình là một mảnh đất mầu mỡ cho những nhà kiến tạo hòa bình tương lai và những nhà cổ động của một nền văn minh mới của sự sống và yêu thương.
Trưởng Thành Về Nhân Tính
Gia đình là nơi đầu tiên đứa trẻ đi vào tương quan với những người khác. Được bao bọc bởi cha mẹ và các anh chị, những đứa trẻ dần dần học biết để tin tưởng vào chính mình và những người khác. Mỗi đứa trẻ khám phá ra điều nó thuộc về mà không cần phải tìm kiếm, nó đáng được yêu và tôn trọng với những phẩm chất, sức mạnh và sự yếu đuối của riêng nó. Vì vậy được chấp nhận và được yêu vì nó thực sự như nó là, đến lượt mình, đứa trẻ trở nên có khả năng để yêu.
Trong cái riêng tư của gia đình, những đứa trẻ có thể phát triển nhân cách của chúng và kinh nghiệm được sự trưởng thành về tâm cảm. Chúng học để đối thoại và giao tiếp, và trở nên ý thức về phẩm giá của chính mình và của những người khác. Với mỗi ngày qua đi, cha mẹ chúng – những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu – truyền tải những giá trị của họ cho chúng. Nếu cha mẹ dựa vào Tin Mừng để đưa ra những nguyên tác sống cho đời sống gia đình của họ, họ sẽ đào tạo sự ý thức và hiểu biết của con cái họ trong ánh sáng của đức tin. Dần dần, những đứa trẻ sẽ hiểu được rằng chúng được mời gọi sử dụng những tài năng của chúng để phục vụ những người khác, trong tình yêu và sự thật.
Những người trẻ, trưởng thành trong một gia đình, nơi mà Thiên Chúa là nền tảng cho mọi giá trị của họ, cũng nhận ra chúng phải chọn lựa giữa việc “sống cho bản thân mình hay sống cho Thiên Chúa và những người khác; sống để được phục vụ hay để phục vụ; sống theo bản ngã của mình hay vâng theo ý Chúa. […] Theo Chúa Giêsu buộc phải từ bỏ điều xấu và sự ích kỷ để chọn điều tốt, sự thật và sự công chính, ngay cả khi điều này đòi hỏi sự hy sinh và sự từ bỏ những điều thích thú của riêng mình […] Theo Chúa Giêsu nghĩa là phải toàn tâm toàn ý, bởi vì đức tin không phải là một sự trang trí bên ngoài, nó là một sức mạnh của linh hồn!” (ĐGH Phanxicô, Kinh Truyền Tin, ngày 18 tháng 8 năm 2013)
Trong thời kỳ Tân Phúc Âm Hóa này, nhu cầu đào tạo những người môn đệ và những chứng nhân cho Chúa Kitô ngay trong chính gia đình là cấp bách hơn bao giờ hết. Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự kết hợp vợ chồng của mình, các bậc cha mẹ rút ra từ ân sủng của Bí Tích Hôn Phối sức mạnh để xây dựng gia đình của mình; vì vậy họ cố gắng yêu, phục vụ, chào đón và tôn trọng mỗi đứa trẻ và thăng tiến sự sống cho nó từ giây phút thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên.
Đó không phải là ý nghĩa của việc trưởng thành về nhân tính sao: làm cho tình yêu lớn lên, làm cho sự sống phát triển?! Không sự phải trưởng thành về nhân tính có nghĩa là, trước hết và trên hết, người chồng nỗ lực để “làm cho vợ mình trở thành một người phụ nữ tốt hơn và vợ làm cho chồng mình trở thành một người đàn ông tốt hơn” đó sao?! (ĐGH Phanxicô, buổi gặp gỡ với hơn 10 ngàn đôi nam nữ đã đính hôn nhân ngày Lễ Tình Nhân tại Rôma, ngày 14 tháng 2 năm 2014) Hãy có tình yêu giữa cha mẹ và con cái, và giữa anh chị em với nhau. Lời cầu nguyện của gia đình, trong tính đơn thuần của nó, diễn tả rằng những thành viên của gia đình dựa trên đá tảng của tình yêu Thiên Chúa: “Lạy Chúa, hôm nay xin cho chúng con tình yêu hằng ngày của chúng con; xin cho tình yêu của chúng con được phát triển!” Họ cầu nguyện cho nhau (Đọc kinh Lạy Cha và lần chuỗi Mân Côi, hay cầu nguyện trước bữa ăn, hoặc trong giờ chầu Thánh Thể, v.v.), không bao giờ quên cầu nguyện cho ông bà nội ngoại. Mọi người đều đồng ý với nhau với câu nói: “Một gia đình cầu nguyện với nhau là sống với nhau”.
Nhận Biết Khuôn Mặt Của Chúa Giêsu
Những thói quen tốt là những nguyên tắc cơ bản để các cặp vợ chồng và các gia đình đạt đến sự trưởng thành trong tình yêu. Ví dụ, thật quan trọng khi biết khiêm nhường nói những lời như: “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi” – càng nhiều càng tốt. Một thói quen khác nữa để xây dựng tình yêu là việc chắc chắn biết dùng thời gian để nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Lời của Thiên Chúa và Bành hằng sống của Ngài, cũng như cảm nghiệm được lòng thương xót của Ngài nơi Bí Tích Hòa Giải.
“Việc tham dự Thánh Thể thực sự sẽ đụng chạm vào tâm hồn và đời sống của chúng ta; việc này không thể bị giới hạn vào những giờ phút thanh vắng, không có sự tác động nào trên đời sống của chúng ta. […] Bởi vì Chúa Giêsu đã trao ban chính mình để tha tội, Thánh Lễ có cho chúng ta ơn sủng để cảm thấy được tha thứ, và đến lượt mình, tha thứ cho người khác không?”
“Nơi Bí Tích Thánh Thể, Chúa Kitô tiếp tục việc trao ban chính mình mà Ngài đã thực hiện trên Thập Giá. Toàn bộ đời sống của Ngài là một hành động của việc chia sẻ trọn vẹn chính mình vì tình yêu; vì lý do này mà Ngài đã yêu để ở với các môn đệ và với những ai Ngài đã có thể biết. Đối với Ngài, điều này có nghĩa là chia sẻ những khát vọng, những vấn đề của họ, những điều đã làm cho tâm hồn họ bối rối và cuộc sống của họ bị xáo trộn. Bây giờ, khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, khi chúng ta gặp gỡ những người đàn ông và phụ nữ thuộc mọi giới: thanh niên, người già, trẻ em, người nghèo và người giầu có, những người bản xứ và ngoại kiều, chúng ta đã đi cùng với những người thân hay đi một mình…
“Thánh Thể mà tôi cử hành có thực sự giúp tôi nhìn tất cả họ (những người tôi gặp gỡ trong Thánh Lễ) như là những anh chị em không? Thánh Thể mà tôi cử hành đó có làm tăng khả năng của tôi để vui với người vui, và khóc với người khóc không? Thánh Thể mà tôi cử hành đó có dẫn tôi đi đến với những người nghèo, người yếu đau và những người bị bỏ rơi bên lề xã hội không? Thánh Thể mà tôi cử hành đó có giúp tôi nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi những con người đó không?” (ĐGH Phanxicô, Bài Giáo Lý của ngày 12 tháng 2 năm 2014, tại Quảng Trường Thánh Phêrô)
Một Con Tim Nhạy Bén Và Hành Động
Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhưng những người anh chị em chung quanh chúng ta này là ai, người thấp kém nhất giữa anh chị em của chúng ta, những người mà chúng ta cần để ý đến? Họ là ai mà chúng ta có thể đưa con cái của chúng ta đến với họ để dạy cho chúng biết cho đi cách nhưng không, biết động lòng chắc ẩn và biết quảng đại? Con cái của chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta, những Kitô hữu, sẽ luôn luôn kiếm tìm để nhận biết những anh chị em của chúng ta trong gia đình nhân loại, những người đang cần sự trợ giúp, để “chữa lành những thương tích, bắc những nhịp cầu, củng cố những mối tương quan và mang lấy những gánh nặng cho nhau (Gl 6, 2)” (ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, 6, 7).
Có thể là một người bà đôi khi thấy nhàm chám vì xem tivi cả tuần? Và, có thể là người hàng xóm lớn tuổi cần sự giúp đỡ đưa đi bác sĩ? Gia đình của những người tỵ nạn vừa mới đến ở trong giáo xứ của chúng ta có đủ thực phẩm để ăn không? Có thể làm điều gì cho người vị thành niên này đang phải sống với cái bào thai ngoài ý muốn, cho người anh em họ này bị thất nghiệp, cho cặp vợ chồng này mới có người con trai tự tử, cho người mẹ này và những đứa con của chị đang phải đau khổ vì kết cục của một cuộc ly hôn? Có thể làm được gì cho gia đình này đang bị khủng hoảng, cho người đồng nghiệp bị khuyết tật gặp khó khăn khi phải đi làm việc vào mùa đông, cho một đứa trẻ trong một đất nước chưa phát triển không có gì để ăn, cho người ông này vừa mới được đưa vào nhà dưỡng lão, hay cho người bạn bị bệnh giai đoạn cuối đó vừa mới nhập viện?
Một con tim nhạy bén là tất cả những gì chúng ta cần để phát triển khả năng nhận ra được những người đang bị tổn thương, những người đang buồn sầu, những người đang tuyệt vọng; rất nhiều người đang sợ hãi, rất nhiều người đang khát tình yêu, lòng thương xót, tình liên đới và sự âu yếm dịu dàng – họ khao khát một sự hiện diện bên cạnh họ. “Một chương trình của Kitô hữu – chương trình của người Samaritanô nhân hậu, chương trình của Chúa Giêsu – là để làm phát triển một con tim có thể nhạy bén. Con tim nhạy bén này thấy được những nơi đang cần tình yêu và hành động theo như điều đã thấy” (ĐGH Bênêđictô XVI, Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, 31).
Ba Loại Nghèo
“Noi gương Thầy Chí Thánh, chúng ta, những Kitô, được mời gọi để đương đầu với cảnh nghèo của anh chị em chúng ta, đụng chạm đến nó, gánh lấy và làm những gì cụ thể để xoa dịu nỗi khốn cùng ấy. Cảnh khốn khổ không đồng nghĩa với nghèo: khốn khổ là nghèo mà không có niềm tin tưởng, không được sự nâng đỡ, không có niềm hy vọng. Có ba loại khốn khổ: khốn khổ về vật chất, về luân lý và về tâm linh. Khốn khổ vật chất là điều thường được gọi là nghèo, và tác động đến những người sống trong những điều kiện nghịch lại với phẩm giá con người: đó là những người thiếu các quyền lợi và nhu cầu cơ bản như lương thực, nước, vệ sinh, việc làm, cơ hội phát triển và tăng trưởng về văn hóa. […] Nơi người nghèo và người bị bỏ rơi, chúng ta nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô; qua việc yêu thương và giúp đỡ người nghèo, chúng ta yêu mến và phục vụ Đức Kitô. Những nỗ lực của chúng ta cũng nhắm đến việc chấm dứt những vi phạm đến phẩm giá con người, những kỳ thị và lạm dụng trên thế giới, vì những điều này thường là nguyên nhân của những khốn khổ. Khi quyền lực, sự sa hoa và tiền bạc trở thành những thần tượng, chúng sẽ chiếm quyền ưu tiên trên nhu cầu cho một sự phân phối công bằng về của cải. Vì thế, lương tâm chúng ta phải được hoán cải, trở về với công lý, bình đẳng, hồn nhiên và chia sẻ.
“Không kém phần gây lo âu là tình trạng khốn khổ về luân lý, một sự khốn khổ vì sống trong sự nô lệ cho tật xấu và tội lỗi. Có biết bao gia đình đau khổ vì có một thành viên trong gia đình, thường là một người trẻ, nô lệ cho rượu, ma túy, cờ bạc hay dâm ô! Biết bao người không còn thấy được ý nghĩa cuộc sống hay viễn tượng cho tương lai, bao người đã mất niềm hy vọng! Và bao người bị nhận chìm vào cảnh khốn khổ này vì những điều kiện xã hội bất công, vì nạn thất nghiệp, điều mà tước mất phẩm cách của họ là những người trụ cột nuôi sống gia đình, và vì thiếu sự bình đẳng về quyền được hưởng giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Trong những trường hợp ấy, sự khốn khổ về luân lý có thể được coi như thể sẽ dẫn đến sự tự sát. Loại khốn khổ này, cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế suy sụp, luôn gắn liền với tình trạng khốn khổ về tâm linh, điều mà chúng ta cảm nhận được khi quay lưng lại với Thiên Chúa và khước từ tình yêu của Ngài. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta không cần Thiên Chúa, Đấng đưa tay ra nắm lấy chúng ta qua Chúa Kitô, vì chúng ta tin mình có thể tự sống được, thì chúng ta sẽ bị thất bại. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thực sự cứu và giải thoát chúng ta.
“Tin Mừng là loại thuốc giải đích thực cho căn bệnh khốn khổ về tâm linh: dù đi bất cứ đâu, chúng ta cũng được mời gọi, như những Kitô hữu, để loan tin giải thoát rằng tội đã phạm sẽ được thứ tha, Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi chúng ta, và Ngài hằng yêu thương chúng ta một cách nhưng không, và chúng ta được tạo dựng cho sự hiệp thông và sự sống vĩnh cửu. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên những sứ giả vui mừng của sứ điệp về lòng thương xót và niềm hy vọng này!” (ĐGH Phanxicô, Sứ Điệp Mùa Chay 2014)
Sống Với Phẩn Giá … Cho Đến Cùng
Một con tim nhạy bén trước những người khác sớm muộn gì thì cũng phải đối diện với một câu hỏi lớn: điều gì cấu thành nên giá trị và phẩm giá của một con người? Ngày nay, không phải mọi người điều đống ý với nhau về câu trả lời. Một số người, bị ảnh hưởng bởi chính những người vận động quốc gia và toàn cầu, từ chối để đánh mất sự độc lập của mình, hay trông chờ được giúp đỡ trong khi đó những năng lực về thể chất và tinh thần của họ trở nên xấu hơn. Bởi vì họ sợ sự đau đớn, hay bởi vì họ quan tâm đến việc trở thành một “gánh nặng” đối với những người họ yêu thương, nên họ đòi quyền được “chết với những phẩm giá”. Để đạt được mục đích này, họ muốn được tự do chọn lựa thời gian và địa điểm cho cái chết của họ, và nó sẽ xảy ra thế nào – hoặc là chết êm dịu hay là an tử, nhưng luôn luôn với sự giúp đỡ của người thứ ba. Câu hỏi được đặt ra cho họ là: sống cái gì để đáng sống.
Và bất chấp tất cả điều này, thực tế là, hơn 40 năm qua, nhóm chuyên gia về y tế đã phát triển giao thức kiểm soát cơn đau để đảm bảo việc chăm sóc lúc cuối đời cách phù hợp. Việc chăm sóc y tế, xã hội, tình cảm và tinh thần cũng có sẵn cho những người cận kề cái chết, làm cho người bệnh có thể sống cuộc sống của họ cho đến khi chết tự nhiên, và họ làm như vậy với lòng can đảm. Đây là những gì mà việc chăm sóc tạm làm giảm nhẹ nhắm đến: cho phép mọi người đi qua cuộc sống – và cái chết – với nhân phẩm của mình.
Được lớn lên trong một gia đình, chúng ta biết rằng chúng ta là những con người sống với các mối tương quan; rằng chúng ta có khả năng yêu thương và chăm sóc cho những người khác. Sự tôn trọng mà chúng ta có đối với người bệnh hay người tàn tật sẽ ảnh hưởng lớn đến nhận thức của họ về phẩm giá của chính bản thân họ. Cách chúng ta nhìn những người này như thế nào ảnh hưởng đến cách họ nhìn chính bản thân họ?! Một người có bệnh hoặc tàn tật là một con người giống như bất kỳ ai khác. Một con người không thể bị giảm giá trị vì bệnh tật hoặc khuyết tật của người đó. Những người khuyết tật hoặc những người bệnh cũng có những cảm giác tương tự những người khác, có cùng những nhu cầu, những khát vọng và những ước mơ lành mạnh. Một sự thờ ơ, lơ đãng trong ánh mắt, hoặc tệ hơn, một cái nhìn khó chịu hay thương hại, thực sự có thể gây ra sự tổn thương.
Tất cả chúng ta đều có sức mạnh để đối phó với bệnh tật của những người khác trong tình bạn hữu, tình yêu và tình liên đới; chúng ta có thể hỗ trợ và bảo vệ “quyền được sống” của họ cho đến lúc chết tự nhiên. Chúng ta cần nhau trong cái chết cũng giống như cần nhau trong cuộc sống. Từ khi sinh ra cho đến chết, tất cả chúng ta, ít nhiều, đều phụ thuộc vào nhau. Có thể tự lập mọi sự là một sự ảo tưởng, một giấc mơ không thể.
Được Tạo Dựng Giống Hình Ảnh Thiên Chúa
Phẩm giá con người dựa trên giá trị vốn có của mỗi người, một giá trị không thể bị lấy đi bởi hoàn cảnh hoặc các yếu tố bên ngoài như sức khỏe. Phẩm giá con người không bắt nguồn từ một “chất lượng cuộc sống”, mà theo những người đề xướng cho cái chết theo yêu cầu, thì “chất lượng cuộc sống” đó, đúng hơn, được xác định bởi sức khỏe thể chất hoặc tâm thần, sự tự lập, năng suất hay “hữu ích” cho xã hội.
Thực vậy, chỉ có con người mới trao tặng phẩm giá này, điều mà không có sinh vật sống nào khác sở hữu. Hơn nữa, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nhân phẩm thật tuyệt vời!
“Một xã hội thực sự mở ra cho sự sống khi nó nhận ra rằng sự sống là quý giá ngay cả nơi những người cao tuổi, người tàn tật, và thậm chí cả ở những người bị bệnh nặng hoặc đang trong lúc sinh thì; khi xã hội đã khẳng định rằng lời mời gọi tới việc nhận ra nhân tính của một người không loại trừ đau khổ, và thay vào đó dạy làm thế nào để nhìn những người bệnh và những người đau khổ như là quà tặng cho toàn thể cộng đồng, mà sự hiện diện của những người bệnh và đau khổ mời gọi mọi người tới tình liên đới và trách nhiệm. […] Các bằng chứng được cung cấp bởi gia đình trở nên quan trọng trong tầm nhìn của mọi khía cạnh của xã hội với sự khẳng định nhất quán về tầm quan trọng của người cao tuổi như người đó là một chủ thể của cộng đồng, những người có một nhiệm vụ để hoàn thành, và về những người mà, luôn luôn là sai khi nói họ là những người chỉ nhận mà không đóng góp bất cứ điều gì ” (ĐGH Phanxicô, Thông Điệp Hội Nghị Toàn Thể của Hoc Viện Giáo Hoàng về Sự Sống, Vatican, 20 tháng 2 năm 2014). Thông điệp quá rõ ràng: mỗi cuộc sống là đáng sống đến cùng.
Chúng Ta Hãy Loại Trừ Nền Văn Hóa “Vứt Bỏ”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết luận rằng, do bị chi phối bởi logic học kinh tế không ngừng, vấn đề lớn của xã hội chúng ta là “chúng ta đã tạo ra một nền văn hóa ‘vứt bỏ’ mà hiện nay đang lan rộng. […] Những người bị loại trừ không phải là những người bị bóc lột’ nhưng là đồ bỏ, ‘là đồ thừa'” (ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, 53), bắt đầu từ những người cao tuổi – đặc biệt là, nếu vì một lý do này hay lý do khác, họ bị bệnh, tàn tật hoặc bị tổn thương.
An tử không phải là mối đe dọa duy nhất đối với những người cao niên dễ bị tổn thương và những người khuyết tật. Bởi thường là rất khó khăn cho họ để đi loanh quanh, và bởi vì họ sống một mình, nhiều người lảng tránh việc tìm kiếm sự chăm sóc y tế. Sau đó, có sự gia tăng của một tâm lý thực dụng nhất định dẫn một số công dân đến việc tố cáo việc sử dụng công quỹ để điều trị cho những người mà theo họ, không còn đóng góp cho xã hội và đã trở thành một gánh nặng. Những người khác tin rằng những người này đã được hưởng lợi đầy đủ từ chế độ, và cho rằng, thật là khôn ngoan khi biết tránh lãng phí nguồn lực cho việc điều trị cho những người mà dù sao sớm muộn gì cũng chết. Tóm lại, họ đã trở thành “đồ đã qua sự dụng”, cần phải vứt bỏ.
Không có công dân nào từng phải hình dung rằng mình sẽ bị cướp đi cuộc sống vì những khát mong, những cảm xúc và đau khổ của chúng ta. “Thiếu sức khỏe hoặc thực trạng của một người khuyết tật không bao giờ là lý do hợp lệ để loại trừ hoặc, và còn gì tồi tệ hơn, là việc loại bỏ những con người. Sự tước đoạt nghiêm trọng nhất mà những người cao tuổi đã trải qua không phải là sự suy yếu về thể chất của một con người, cũng không phải là sự khuyết tật. Đúng hơn, đó là sự ruồng bỏ, sự loại trừ và thiếu thốn tình cảm” (ĐGH Phanxicô, Thông Điệp Hội Nghị Toàn Thể của Hoc Viện Giáo Hoàng về Sự Sống, Vatican, 20 tháng 2 năm 2014).
Đây không phải là lúc dừng lại để nhìn xem tuổi già là một vấn đề, và những người lớn tuổi như là một gánh nặng phải không? Sự khôn ngoan Kitô giáo giúp chúng ta hiểu rằng lão hóa là một phần bình thường của cuộc sống, và khuyến khích chúng ta sống những đức hạnh của đạo đức: sự tôn trọng, biết ơn đối với cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Chính nhờ có các ngài mà chúng ta đang sống hôm nay. Họ là những người đã cho chúng ta sự sống, nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục chúng ta. Đến lượt mình, khi các ngài bước vào tuổi già, chúng ta phải giúp đỡ các ngài , vì các ngài cần chúng ta. Chúng ta phải là những người để các ngài có thể cậy dựa vào, và phải chu cấp cho các ngài với lòng yêu mến, sự chăm sóc và thời gian.
“Trong Thông Điệp Tin Mừng Sự Sống, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói về sự cần thiết để phục hồi ‘giao ước giữa các thế hệ’: ý tưởng đó là, mỗi thế hệ mắc nợ và có được những điều nào đó từ các thế hệ trước và sau nó. […] Làm thế nào, ví dụ, chúng ta có thể đảm bảo rằng hệ thống pháp luật, hệ thống y tế của chúng ta và hệ thống an sinh xã hội không gây bất lợi cho những người già và những người khuyết tật? Làm thế nào, như là một Giáo Hội, chúng ta có thể giúp cho họ tốt hơn về tinh thần, tình cảm và những cách khác? Và một lần nữa, chúng ta đặt những câu hỏi này không phải vì chúng ta nhìn những người cao tuổi hoặc những người khuyết tật như là một vấn đề, nhưng vì chúng ta xem họ như những thành viên bình thường trong cộng đồng, những người có những nhu cầu và khả năng đặc biệt, như tất cả chúng ta có trong những giai đoạn khác nhau của cuộc sống của chúng ta” (ĐGM Anthony Fisher, Bài trả lời phỏng vấn với Hãng Thông Tấn Zenit, ngày 21 tháng 2 năm 2014).
Thách đố mà hiện nay chúng ta đang phải đối mặt là đặt những người bệnh tật ở trung tâm của gia đình và cộng đồng của chúng ta, và cầu nguyện cho họ và với họ. Tóm lại, chúng ta phải bắt chước thái độ của Chúa Giêsu đối với tất cả những người bệnh và yếu đau, chăm sóc họ, chia sẻ với họ sự đau khổ và giúp họ giữ được niềm hy vọng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyến khích “các gia đình, nơi mà việc chăm sóc một người bệnh là điều bình thường”, biết rằng tình hình có thể trở nên rất nặng nề, ‘Tôi nói với họ rằng: Đừng sợ bị tổn thương! Hãy giúp đỡ lẫn nhau trong tình yêu, và các bạn sẽ cảm thấy sự hiện diện an ủi của Thiên Chúa'”. (ĐGH Phanxicô, Bài suy niệm nhân dịp lễ Đức Mẹ Lộ Đức và ngày cầu nguyện cho bệnh nhân, ngày 11 tháng 2 năm 2014)
“Tự Trong Thâm Tâm, Ai cũng Sợ …”
Dành chút thời gian để suy gẫm, chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta đều dễ bị tổn thương. “Chúng ta được sinh ra rất mong manh, và chúng ta chết cũng rất mong manh. Trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta cũng dễ bị tổn thương, và có nguy cơ bị thương” (Trích dẫn từ một website dành cho Jean Vanier (http://fondation-larche.org/english/LArche/Founder.html). Với Marie-Hélène Mathieu, ông cũng thiết lập phong trao quốc tế “Đức Tin và Ánh Sáng” (http://www.faithandlight.org/), đây là sự quan sát của Jean Vanier – một trong những nhà nhân văn Kitô giáo lớn của thời đại chúng ta. Là người kiến tạo hòa bình, người bênh vực cho những người dễ bị tổn thương, một người của tình thương và lòng từ bi, Vanier đã thành lập cộng đồng L’Arche vào năm 1964 để cung cấp một môi trường sống và một gia đình cho những người khuyết tật tâm thần. Đối với ông, mỗi người là một “câu chuyện thánh thiêng”.
Những người đàn ông và những người phụ nữ, một số bị khuyết tật trí tuệ và những người khác thì không, hiện đang sống tại hơn 150 cộng đồng L’Arche rải rác khắp bốn mươi quốc gia trên toàn thế giới. Cùng nhau, họ là những người điển hình cho một viễn cảnh về một thế giới, nơi mà những người yếu nhất và những người mạnh nhất luôn cần đến nhau để được hoàn thiện, được hạnh phúc và sống trong sự hòa hợp.
Kinh nghiệm đã thuyết phục Jean Vanier rằng “những người bất lực và dễ bị tổn thương thu hút những gì là đẹp nhất và sáng nhất nơi những người mạnh mẽ hơn” (Trích dẫn từ một website dành cho Jean Vanier (http://fondation-larche.org/english/LArche/Founder.html). Với Marie-Hélène Mathieu, ông cũng thiết lập phong trao quốc tế “Đức Tin và Ánh Sáng” (http://www.faithandlight.org/). Những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta có khả năng biến đổi một cách sâu sắc những người đến sống hoặc kết bạn với họ. Cách nào đó, họ là những người kiến tạo hòa bình. Đây là một nhận định cũng được áp dụng giống như thế đối với những người bệnh và người già cả.
“Sinh mệnh mong manh nhất buộc chúng ta phải chấp nhận sự mỏng dòn của mình và sự chấp nhận sự yếu này của chúng ta dẫn chúng ta đến sự đối thoại, cởi mở và hòa bình với những người khác. Tuy nhiên, các yêu cầu của một xã hội nơi mà chúng ta phải trở nên hoàn hảo, không có sai sót hoặc những vấn đề, và ngăn chặn quyền phạm những sai lầm, đặt chúng ta trong một sự căng thẳng thường xuyên với chính mình và với những người khác” (Trích dẫn từ một website dành cho Jean Vanier (http://fondation-larche.org/english/LArche/Founder.html). Với Marie-Hélène Mathieu, ông cũng thiết lập phong trao quốc tế “Đức Tin và Ánh Sáng” (http://www.faithandlight.org/).
Ngày 1 tháng 1 năm 2014, Jean Vanier đã gởi thông điệp này nhân dịp lần đầu tiên của chương trình “24 Giờ Cho Hòa Bình Thế Giới”:
“Mọi người đều hoảng sợ … Hoảng sợ bởi điều gì? Hoảng sợ về những gì là khác biệt […] Trong các cộng đoàn L’Arche của chúng tôi, chúng tôi tiếp đón những người khác nhau … Họ khác nhau vì khuyết tật của họ, hoặc có lẽ bởi vì tôn giáo của họ, họ khác nhau. Khó khăn lớn với những người chúng tôi tiếp đón, những người khuyết tật trí tuệ, là họ đã bị làm nhục. Sỉ nhục là cảm giác rằng không ai muốn tôi, rằng tôi không được yêu. Vì vậy, toàn bộ vấn đề khi bạn tiếp đón một người nào đó là để giúp anh ta nhận ra rằng anh ta đẹp hơn như anh thấy, và anh ta cũng là một con người. Giúp cho anh ta nhận ra rằng, đằng sau tình trạng khuyết tật và những khó khăn của anh ta thì vẫn còn đó chính con người anh.
“[…] Để hội nhập với văn hóa của người khác đòi hỏi phải có sự khiêm tốn, có nghĩa là chấp nhận để mất điều nào đó, để mất một ưu thế nhất định. Chính điều này giúp chúng ta khám phá ra rằng, tất cả chúng ta đều là con người, với những điểm yếu, sự nghèo nàn, nhỏ bé của chúng ta. Có thể chúng ta có những văn hóa khác nhau, những khả năng khác nhau, nhưng về cơ bản tất cả chúng ta đều là những con người được sinh ra trong sự yếu đuối và chúng ta cũng sẽ chết trong sự yếu đuối. Trong khi đó, chúng ta phải trở nên có trách nhiệm, và sau đó trở nên mong manh hơn” (Jean Vanier, thông điệp này nhân dịp lần đầu tiên của chương trình “24 Giờ Cho Hòa Bình Thế Giới” (http://www.24hoursforworldpeace.org/en/content/message-jean-vanier).
“Kinh nghiệm của tôi ở L’Arche đã giúp tôi khám phá ra rằng những người yếu đuối, nhỏ bé, khuyết tật là những sứ giả của hòa bình. Nhờ sự hiện diện và những cử chỉ của họ, họ mở rộng con tin của chúng ta hướng đến việc hiểu biết và lòng trắc ẩn hơn là khơi dạy sự sợ hãi. Trong một cách thế nhiệm mầu, họ phá tan những rào cản vây quanh con tim của chúng ta.” (Jean Vanier)
“Hãy Vui Luôn”
Lòng trung thành, sự kiên nhẫn, sự cởi mở với cuộc sống, và sự tôn trọng người cao tuổi – đây là tất cả những đặc tính làm cho các gia đình Kitô giáo trở thành “Tin Mừng” cho xã hội chúng ta. Đó là sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi tất cả những gì là khác biệt. Tại sao giấu kín nó?
Vâng, đây chính là lúc để chia sẻ với những người khác bí quyết hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta đang chờ đợi gì trước khi dũng cảm và trân trọng cho họ biết nhân phẩm tuyệt với nhất của họ như là con cái Thiên Chúa và đặc tính thánh thiêng của cuộc sống của họ; để giúp họ khám phá vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình đã được biết đến nhờ Tin Mừng? Chúng ta đang chờ đợi gì trước khi nói với họ rằng “những thử thách, sự hy sinh và những khủng hoảng của các cặp vợ chồng, cũng như của gia đình, như một toàn thể, mô tả những con đường cho sự phát triển trong sự tốt lành, sự thật và vẻ đẹp”? (ĐGH Phanxicô, Cuộc Họp Toàn Thể lần thứ 21 của Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình tại Rôma ngày 25 tháng 10 năm 2013)
Chúng ta đang chờ đợi gì trước khi nói với họ rằng, chỉ mình Đức Kitô mới có thể mặc khải ý nghĩa trọn vẹn của cuộc sống của họ; họ chỉ có thể triển nở hoàn toàn bằng cách đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa; họ sẽ không bao giờ đơn độc mình một khi họ biết mở cuộc đời họ ra với Chúa Kitô, và khám phá nơi Giáo Hội kho tàng của Lời Chúa, các bí tích và tình bằng hữu với anh chị em, những người sẽ cùng bưới đi với họ tới mục tiêu cuối cùng, nơi mà họ sẽ tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống của họ: hạnh phúc vĩnh cửu trong Trái Tim của Thiên Chúa.
Nhiều người khác – thường vô tình – cũng giống như chúng ta “nghèo trong tình yêu, khao khát chân lý và công lý, những người hành khất của Thiên Chúa. Trong thực tế, hình thức lớn nhất của nghèo đói là thiếu Chúa Kitô và cho đến khi chúng ta mang Chúa Giêsu đến cho những người khác, chúng ta sẽ không bao giờ làm cho họ lấy làm đủ.” (ĐGH Phanxicô, sứ điệp gởi cho Đức Cha Francesco Lambiasi, Giám Mục giáo phận Rimini, nhân dịp “Hội Nghị Tình Hữu Nghị Giữa Các Dân Tộc” lần thứ 34, từ ngày 18 – 24 tháng 8 nam 2013)
Đã đến lúc gia đình Kitô giáo chúng ta phải trở thành gia đình truyền giáo – để vượt qua nỗi sợ hãi và bảo vệ Sự Sống! Hãy truyền bá niềm hy vọng và niềm vui của chúng ta! Tất cả chúng ta phải lắng nghe chính mình: “Hãy vui luôn … Chúa đã đến gần” (Pl 4, 4 – 5).
“Cho thì có phúc hơn là Nhận” (Cv 20, 35)
(Thông Điệp của Tổ Chức Công Giáo Canada về Sự Sống và Gia Đình (COLF) được phát hành ngày 10 tháng 9 năm 2014).
Chuyển ngữ: Hoàng Quốc Việt